Di tích lịch sử

Phú Thọ

Chùa Bảo Ngạn

Chùa Bảo Ngạn tọa lạc tại xã Sông Lô, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bảo Ngạn vốn là một ngôi chùa cổ, tương truyền xưa kia vốn là thái ấp thang mộc của con gái vua Hùng, được chư Tổ kiến tạo thành chùa thờ Phật, là nơi ủ ấm tâm linh cho dân cư Phật tử cả một vùng rộng lớn. Trải qua các biến cố thăng trầm của thời gian, ngôi chùa đã thành một phế tích. Từ chốn Tổ chùa Hương – Hà Tây, được Phật bổ xứ về chùa Bảo Ngạn, Đại đức Thích Minh Thuận đã từng bước một, vừa kiên trì kiến tạo cả nền tảng vật chất và nền tảng tâm linh của chùa, vừa phát tâm vô quải ngại nỗ lực đóng góp cho công nghiệp hoằng pháp ở Phú Thọ. Ban đầu Thầy làm các lán nhà tạm, rồi từng bước 1 xây dựng giảng đường, nhà khách, nhà Tăng, nhà Tổ,…kiên cố, uy nghi. Trường An cư kết hạ và các khóa tu, các lễ hội vẫn được khai mở tại đây. Như ong về tổ, Phật tử vân tập về tu học ngày một đông đúc. Nơi đây đã trở thành 1 chốn Già lam nổi tiếng trong vùng. Chùa Bảo Ngạn có kiến trúc và thiết kế nội thất tuân theo phong cách Chân Tịnh kết hợp với Mật Tịnh đồng tu. Đặc biệt, nó có cung thờ Tổ Liên Hoa Sinh – một vị tổ quan trọng trong Mật tông Tây Tạng. Đại đức Minh Thuận, một trong những Pháp tử ưu tú của Tổ Viên Thành, được biết đến là người đã đưa Mật giáo trở lại Việt Nam vào năm 1992. Kiến trúc của chùa Bảo Ngạn theo hình dáng của chữ “Công”, với tiền tế chồng lên nhau tạo thành tám mái. Hậu cung cũng có mười hai mái, với diện tích mặt sàn lớn hơn 500m2 và chiều cao lên tới 16,5 mét. Ngôi chùa hiện đứng vững uy nghi bên bờ sông Lô, gần cây cầu Việt Trì lịch sử. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1832 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thượng

Đền Thượng có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện (Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Ngôi Đền là một công trình kiến trúc của khu di tích quần thể Đền Hùng tọa lạc tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền Thượng được xây dựng trên nền cũ của ngôi miếu thờ thần núi, thần lúa, Thánh Gióng…, là nơi các vua Hùng thường tiến hành các nghi thức cầu khấn trời đất, mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc. Có tài liệu cho rằng đền Thượng được xây dựng vào thế kỷ 15, hiện đền có ba gian, mái ngói đầu đao cong. Cửa đền có bức hoành phi: Nam Việt Triệu Tổ (Tổ muôn đời của nước Việt Nam), trong đền có bức đại tự: Tử Tôn Bảo Chi (Con cháu phải giữ gìn lấy). Ngoài ra còn có rất nhiều câu đối ca ngợi công đức của các bậc Thánh Tổ. Ban thờ trong đền có bài vị của 18 đời vua Hùng (Hùng đồ thập bát thế Thánh vương Thánh vị) và ba vị thần núi: Đột Ngột Cao Sơn (núi Nghĩa Lĩnh), Áp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn (núi Vặn), hai bên trước cửa đền là hai cột đá, tương truyền do An Dương Vương dựng lên, thề muôn đời gìn giữ giang sơn gấm vóc họ Hùng. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp: Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Trong đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ”, nghĩa là Tổ khai sáng nước Việt Nam. Đền được làm kiểu chữ Vương, có 3 cấp. Phía trước là nghi môn rồi đến đại bái (cấp 1), tiền tế (cấp 2) và hậu cung (cấp 3). Trong cuốn sách “Đền Hùng di tích lịch sử văn hóa đặc biệt quốc gia” có viết: Nghi môn kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn, có 4 trụ biểu lớn tạo thành 3 cổng mái vòm. Các cột trụ phía trên đắp theo kiểu lồng đèn, bốn mặt đắp hình tứ linh, đỉnh cột đắp 4 con nghê chầu. Phía trên nóc cổng giữa đắp trang trí “lưỡng long chầu nhật”, hình hai con rồng đang uốn lượn. Hai bên có tượng võ sĩ, phía trên là hình phượng cặp thư. Ở đại bái, tiền tế và hậu cung kết cấu được xây thành 3 cấp nối liền nhau. Mặt bằng có cấu trúc 3 gian, 2 hàng cột. Đặc biệt tại hậu cung là nơi thâm nghiêm, bên trong có 4 ban thờ. Ở 3 ban thờ chính diện có long ngai và bài vị được đặt trong khám thờ. Tất cả đều trạm trổ công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Phía tay trái đền Thượng có cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại. Qua thời gian, dấu tích cột đá bị vùi lấp. Năm 1968, các nhà nghiên cứu tìm thấy những cột đá cổ nằm sâu trong lòng đất tại khu vực đền Thượng. Từ đó cột đá thề được xây dựng lại ở bên phải trước sân đền. Năm 2003, cột đá được trùng tu kiểu dáng như cũ; năm 2009 tu bổ, tôn tạo lại bằng đá bán quý với kiểu dáng như hiện nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 2012 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Hạ

Đền Hạ là một công trình kiến trúc của khu di tích quần thể Đền Hùng tọa lạc tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ trở dạ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ mang theo 50 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Vương.tạo nên dòng dõi con Rồng cháu Tiên. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 - 18 được làm hai lớp theo kiểu chữ Nhị; đây là nơi thờ phụng các vua Hùng. Chùa Thiên Quang Thiền Tự: Nằm bên phải đền Hạ, được xây dựng vào giữa thế kỷ 15. Kiến trúc ngày nay còn lại là phần tiền tế, gác chuông tám mái, xà, bẩy, chạm trổ đẹp đẽ mang dấu ấn thời Lê. Cạnh đó là cây thiên tuế khoảng 700 năm tuổi. Tương truyền khi mẫu Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, trên trời có làn mây sáng chiếu xuống. Về sau nhân dân dựng nên chùa tại đó gọi là Thiên Quang Thiền Tự (nơi có ánh sáng trên trời rọi xuống), ngoài ra chùa còn có tên khác là Sơn Cảnh Thừa Long Tự. Kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm Tiền bái và Hậu cung, mỗi tòa ba gian, cách nhau 1,5 m. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi, người dân địa phương gọi là ngói mũi lợn. Đốc xây liền tường với hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên to, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng và không trang trí mỹ thuật. Ngôi đền nhỏ bé cấp 4, gồm 3 gian nhỏ để thờ tự, phía trước ngôi đền có một lư hương lớn bằng đá để du khách tới cúng viếng. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1807 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Thiên Quang

Chùa Thiên Quang, hay còn được gọi là Thiên Quang Thiền Tự, vị trí của nó đặt tại Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, phía Tây Bắc thành phố Việt Trì, trong xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Trong Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, nơi này đứng gần đền Hạ, cùng với đền Trung (Hùng Vương tổ miếu), đền Thượng (Kính Thiên Lĩnh điện, Cửu Trùng Tiên điện), và đền Giếng, cũng như lăng mộ của vua Hùng. Tên gọi ban đầu của chùa là Viễn Sơn Cổ Tự, nhưng sau này được đổi thành Thiên Quang Thiền Tự. Chùa này là một trong những công trình thuộc hệ phái Bắc tông. Lịch sử xây dựng của chùa Thiên Quang gắn liền với thời kỳ Lê Trung Hưng. Tam quan của chùa được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái, mô phỏng chồng giường, thể hiện rõ nét mỹ thuật thời Hậu Lê. Đặc biệt, chùa có một chiếc chuông cổ, và trước sân chùa là một cây vạn tuế ba cành, đã tồn tại hơn 700 năm. Trong chùa, Điện Phật được trang nghiêm với sự hiện diện của các tượng Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Tam Tôn, Quan Thế Âm, Hộ Pháp và nhiều vị Phật khác. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 2043 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa San Bảo

Chùa San Bảo được gọi là San Bao Tự (gọi theo chuông), tên gọi trong nhân dân: Chùa Phượng Lâu (gọi theo địa danh di tích). Chùa nhìn theo hướng Đông – Nam có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Công gồm 03 tòa: Tiền đường, Thiêu hương (ống muống) và Thượng diện với tổng diện tích 167,4m2. Chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê – Thế kỷ thứ 18 và được tu bổ, tôn tạo năm 2014 nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, lễ phật hướng thiện tích đức của các tầng lớp nhân dân trong Xã cũng như phật tử ở khắp mọi miền có tâm hướng thiện. Chùa San Bảo là nơi hội họp và thành lập Chi bộ xã Chiến Thắng, là nơi đóng quân của bộ đội trên địa bàn xã. Lễ chùa San Bảo có các ngày như: Lễ tụng kinh niệm phật hàng ngày, lễ cúng phật vào những ngày rằm, mùng một hàng tháng, lễ cầu siêu cho linh hồn người đã chết, các ngày lễ tôn giáo khác như: Lễ thượng nguyên (rằm tháng giêng), lễ trung nguyên (rằm tháng 7). Lễ cầu yên vào hạ tháng 4 âm lịch, cuối xuân, đầu hạ cũng là lễ tiến hoàng trùng để trừ sâu bọ phá hoại mùa màng, ngày lễ Phật đản (15 tháng 4) gọi là ngày hội của phật giáo Việt Nam, với nghi lễ thay áo cho phật. Chùa San Bảo là công trình tín ngưỡng tôn giáo duy nhất của xã Phượng Lâu còn bảo lưu được hệ thống tượng cổ (37 bức tượng) được bố trí sắp xếp theo thứ tự bộ tượng quy định. Nghiên cứu về khoa học, lịch sử của di tích chùa San Bảo là di tích có giá trị về tâm linh tôn giáo và có ý nghĩa tinh thần sâu sắc trong mỗi người dân. Đây là di tích còn bảo lưu những giá trị vốn có trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, tất cả được thể hiện qua hệ thống tượng phật và kiến trúc của ngôi Chùa. Ngoài số tượng phật, chùa còn bảo lưu được 3 bia đá (01 mặt tượng phật mặt kia là bia) có giá trị tiêu biểu thời hậu Lê. Một chuông đồng kích thước cao 0.95 m, đường kính 0,49 m. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1681 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Du Yến

Đền Du Yến thuộc xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba. Nơi đây cây cối xanh tốt, sông núi hữu tình. Trước mặt đền là dòng sông Thao ngày đêm ca hát, bồi đắp phù sa. Phía sau thế đất tựa chiếc yên ngựa nối với gò Sơn Ngọc, bao quanh là hồ sen. Theo ghi chép lại, xưa kia vào những năm đầu sau Công nguyên tại vùng Thao Giang huyện Thanh Ba có gia đình nông dân thiện lương hạ sinh được một người con gái và đặt tên là Hạnh Nương. Cô gái nhỏ này được học hành đàng hoàng, lớn lên học cả văn chương lẫn võ nghệ. Bà là người con gái thông minh học một biết mười, nhan sắc tuyệt vời, tính tình hiền dịu nết na. Khi trưởng thành, trai tài nhiều người trong làng ướm hỏi bà đều từ chối không muốn vương bụi trần để giữ mình trong sạch. Năm Hai Bà Trưng khởi nghĩa đã cho mời Hạnh Nương về gặp. Thấy bà văn võ song toàn nên Hai Bà Trưng đã phong cho bà là trưởng lĩnh tiền quân. Sau khi đánh tan quân Tô Định, nữ tướng Hạnh Nương về thăm quê mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng, mở hội trên một gò đất bên sông hình con hổ trắng đang uống nước. Nơi đây về sau nhân dân lập đền thờ lấy tên là Du Yến (nghĩa là nơi du chơi và yến tiệc), ngày khao quân đúng vào ngày rằm tháng giêng. Cũng từ đó cứ dịp vào rằng tháng giêng là dân làng mở hội cầu tế để nhớ ơn công đức của bà cầu cho mưa thuận gió hòa, cho nhà nhà được mọi điều tốt lành. Trải qua bao thời gian đền Du Yến đã xuống cấp. Nhân dân trong vùng nhiều lần tôn tạo và giữ gìn ngôi đền cổ và xem đây là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh của cả vùng. Từ năm 2003 đền được trùng tu tôn tạo bao gồm hơn 12 hạng mục với số vốn đầu tư hơn 6 tỷ đồng. Năm 1993 đền được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1681 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đào Xá

Đình Đào Xá nằm tại xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Đào Xá là miền đất cổ, có nền văn hoá lâu đời cách đây khoảng 1.800 năm thuộc vùng đất Khuất Động Liêu, thuở khai sơ có tên là Làng Dâu, Làng Da, sau này đổi tên thành làng Đào Xá. Đình có nguồn gốc xây dựng rất sớm vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ thứ XVII). Năm 1924 ngôi đình bị cháy hư hỏng một phần kiến trúc. Năm 1930, ngôi đền được trùng tu, tôn tạo lại. Vì vậy kiến trúc hiện nay của ngôi đình Đào Xá mang dấu ấn của hai thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Nơi đây thờ Hùng Hải Công (em thứ 19 của vua Hùng), là người đã có công khai mở đất đai, dạy dân trị thủy, cày cấy, chăn nuôi, xây dựng xóm làng trù phú. Nơi đây còn thờ 3 vị thủy thần là 3 người con trai của Hùng Hải Công. Đình Đào Xá được làm theo kiểu chữ tam gồm 3 toà: Tiền tế, trung tế và hậu cung. Nền đền được làm theo kiểu giật cấp cao dần vào phía hậu cung, các nền cao hơn nhau 0,40m và cách nhau bằng sân lộ thiên. Khung kiến trúc làm theo kiểu tứ trụ lòng thuyền; bộ vì được kết cấu theo kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ bảy. Với những giá trị văn hóa lịch sử, nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, đình Đào Xá được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia năm 1974 và là một trong những ngôi đình cổ nhất trên địa bàn tỉnh còn được lưu giữ đến ngày nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1836 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng, rợp bóng cây xanh, giữa thôn quê trung du hữu tình, tại khu 12, xã Vạn Xuân (xưa là xã Cổ Tiết), huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khu lưu niệm rộng 2.780m2 bao gồm các công trình như: cổng chào, nhà lưu niệm, căn nhà cụ Hoàng Văn Nguyện - nơi Bác Hồ ở từ ngày 04/3 đến ngày 17/3/1947, trên đường lên căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Nhà lưu niệm được khởi công xây dựng năm 1994, đến năm 1995, được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia. Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở xã Vạn Xuân là di tích lịch sử, văn hóa ghi dấu ấn hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nhân dân Đất Tổ Phú Thọ, là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tình cảm thiêng liêng của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ đối với Bác Hồ kính yêu./. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Phú Thọ 2107 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ vua Lý Nam Đế

Đền thờ vua Lý Nam Đế Tọa lạc trên khoảng đất rộng rãi với địa thế cao ráo tại gò Cổ Bồng, xã Vạn Xuân, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế gồm nhiều hạng mục kiến trúc như: Nghi môn, đền thờ, sân vườn,... Với vị trí cách không xa Đền Hùng, đây hứa hẹn là một địa điểm du lịch tâm linh độc đáo tại Phú Thọ. Theo lịch sử, vua Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí, là người có tài văn võ. Từ nhỏ đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, tư chất khác người. Ông được một vị Pháp tổ thiền sư nhận nuôi và cho học. Nhờ có văn võ song toàn, Lý Bí sớm được tôn lên làm thủ lĩnh một vùng. Có thời ông từng làm quan cho nhà Lương, nhưng rất bất bình với bọn quan lại đô hộ tàn ác bóc lột và đàn áp dân chúng, ông đã bỏ quan về chiêu binh, liên kết với nhiều hào kiệt, tù trưởng giỏi khác khởi nghĩa chống lại quan quân đô hộ nhà Lương tại Giao Châu. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương. Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tháng Giêng năm 544, Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Di tích thờ Lý Nam Đế hiện nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh: Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ… nhưng chỉ duy nhất ở Phú Thọ có đền thờ tại nơi Ngài mất và lăng mộ của nhà vua. NGUỒN: Báo Quân đội nhân dân

Phú Thọ 2050 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Do Nghĩa

Đình làng Do Nghĩa nằm trên một gò đất cao của làng Do Nghĩa (xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) được khởi dựng từ khoảng cuối thế kỉ 17 đầu thế kỷ XVIII, mang kiến trúc đặc trưng của xứ Đoài. Đình thờ Đại Hải Long Vương cùng thời với Tản Viên Sơn Thánh phụng sự triều đại Hùng Vương. Đình có tổng diện tích 4.636m2, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh. Cổng đình gồm một cửa chính, hai cửa phụ. Cổng chính hình vòm, được trang trí bằng những con giống với các đường diềm, đường nét hoa văn nghệ thuật. Trong đình có nhiều hiện vật rất có giá trị như: kiệu bát cống (trang trí nghệ thuật thời Lê thế kỷ 18), kiệu văn (trang trí nghệ thuật thời Nguyễn), bộ chấp kích, 3 mâm ấu, giá văn chạm nổi Rồng chầu mặt nguyệt, chân đế đục chạm hình Rồng yên ngựa, đẳng ghế dài trang trí trạm thủng hình long ly quy phượng, 1 cuốn ngọc phả 16 đạo sắc phong từ thời Lê Cảnh Hưng đến thời Nguyễn… Là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, một hình ảnh mẫu mực của phong cách kiến trúc cổ truyền dân tộc, đình Do Nghĩa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 1539 ngày 27/12/1990 NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử Bộ văn hóa thể thao du lịch

Phú Thọ 2069 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phúc Thánh

Chùa Phúc Thánh nằm trên núi Ngọc Phác, bên hữu ngạn sông Hồng. Chùa hiện có hai tòa Thiêu Hương và tòa Thượng Điện. Theo bia dựng ở Tòa Thiêu Hương thì chùa Phúc Thánh được xây dựng năm 1145, đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định. Chùa do bà Phụng Thánh phu nhân Lê Thị Xuân Lan là dòng dõi vua Lê Đại Hành và là vợ thứ tư của vua Lý Thần Tông đứng ra chủ trì xây dựng. Ngôi chùa gắn liền với sự kiện lịch sử hào hùng, một tấm gương chiến đấu kiên cường, bất khuất và sự hy sinh cao cả của người con gái quê hương Đất Tổ Vua Hùng trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lược Nam Hán, đó chính là nữ tướng Xuân Nương công chúa, một vị tướng tài ba dưới thời dựng cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong chùa hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng Đức Ông, tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Thổ Địa, tượng thánh Mẫu là Lê Thị Xuân Lan... và một số di vật bằng đá có niên đại thời Lý mang giá trị nghệ thuật điêu khắc cao là tấm bia đá niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 9 (1171), đá kê chân cột, bát hương đá. Những di vật này là những bản chạm khắc hiếm hoi còn lại đến nay, nó mang đậm dấu ấn nghệ thuật chạm khắc đá thời Lý thể hiện quan niệm về tín ngưỡng, ước vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. NGUỒN: BÁO Phú Thọ

Phú Thọ 1948 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đức Bà

Đền Đức Bà ( Hương Nộn, Tam Nông, Phú Thọ, Việt Nam) là nơi thờ Xuân Nương Công chúa - người đã có công lớn trong cuộc khởi nghĩa đầu công nguyên. Bà được Trưng Vương phong chức Tả tướng quân kiêm Tham tán mưu sự khi nhà Hán sai Mã Viện xâm lược trở lại nước ta. Bà đã cùng chồng là ông Thi Bằng chiến đấu dũng cảm chống quân xâm lược và cả hai đều anh dũng hy sinh. Tương truyền rằng, nơi đền thờ Bà hiện nay, là nơi hội tụ nghĩa quân và cũng là nơi Bà tử tiết. Cảm phục công đức của Bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ và Bà được phong là Đức Bản Cảnh Đông Cung Đệ Nhất Bát Vị Xuân Nương Công Chúa Đại Vương. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Phú Thọ 1945 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bồng Lai

Chùa Bồng Lai ( Xã, Hà Thạch, Phú Thọ, Việt Nam) được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía. Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc. Chùa có kiến trúc đẹp, ở giữa quả đồi đẹp cao nhất khu vực, như một dấu nối giữa trời và đất, giữa âm và dương. Từ đê bước tới chùa, ta phải leo một con dốc dài mới tới cửa Phật. Một không khí mát mẻ, êm dịu của hương hoa đại, của tán lá cổ thụ tạo nên cảm giác khoan khoái và lắng đọng. Theo văn bia, chùa Bồng Lai thời Lê có kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc, gồm 36 gian, tượng trưng cho 36 chòm xóm làng Hà Thạch. Trải qua những biến cố của lịch sử xã hội, chùa Bồng Lai đồ sộ bị mai một dần. Đến nay mặt bằng kiến trúc của chùa được bố cục như sau: Ngoài chùa là cổng tam quan làm lại (tam quan cũ bị phá năm 1953) từ cổng theo một lối đi thẳng tắp đến sân chùa lát gạch đỏ rộng 200m2, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Kiến trúc chính của chùa gồm 2 tòa hình chữ đinh, được xây dựng trên nền đất cao nhất. Tiền đường 5 gian dài 14m, rộng 3,1m, mới làm cách đây trên 20 năm, kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gối tường bổ trụ. Tòa thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian, dài 13,5m, rộng 8,7m. Kết cấu vì kèo của tòa nhà này gồm câu đầu và trụ báng chống nóc. Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m; cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m; thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa. Đặc biệt trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt chạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17. NGUỒN: GIÁC NGỘ ONLINE

Phú Thọ 2196 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phổ Quang

Quần thể Phổ Quang Tự gồm các công trình kiến trúc cơ bản: Tam quan – Gác chuông, nhà văn chỉ, chùa Phổ Quang, nhà bia, nhà Tổ. Tam quan – Gác chuông tại chùa vẫn bảo lưu được kiến trúc cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với hệ mái chồng diêm 2 tầng 8 mái, đao cong thanh thoát, bờ nóc đắp hình Long cuốn thủy. Thượng lương khắc hàng chữ Hán: “Hoàng triệu Minh Mạng nhị thập niên” (tức Minh Mạng năm thứ 12 – năm 1839), các đầu được chạm khắc hình hoa sen. Trên gác chuông treo quả chuông đồng “Phổ Quang tự chung” và khánh đồng đều có niên đại đức năm Minh Mạng nhị thập niên – năm 1839. Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Hà Nội, 1993) đã tóm lược nội dung khắc trên hai tấm bia đá ở chùa. Một tấm bia tạo năm 1628 cho biết chùa là ngôi cổ tự danh lam bị hư hỏng, nên vào năm 1626, các vị Tín quan, Phú Xuyên hầu Nguyễn Hiếu Dũng, Sĩ Phủ Nguyễn Văn Vị cùng khoảng 70 vị hội chủ hưng công tổ chức trùng tu các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tam quan…Một tấm bia tạo năm 1634, có khắc bài thơ Đường luật 8 câu của Phạm Sư Mạnh năm 1377 nói việc đi kinh lý ở vùng này. Chùa Phổ Quang được xây dựng theo kiểu chữ “Công”, lợp ngói, có hai cấp chùa. Chùa cấp trên cao 10m, dọc 7m, gồm ba gian, có một cửa ra vào từ nhà Tổ lên chùa. Chùa cấp dưới ngang 16m, dọc 13,5m, gồm 5 gian. Đá Kê cột có loại vuông, loại bát giác với trang trí gần như lá đề. Giữa chùa có bức đại tự và hai câu đối. Phổ Quang Tự có kiến trúc theo kiểu trồng đầu, điêu khắc đơn giản. Tòa Tam bảo gồm: Bái đường, Thiêu hương và Chính điện. Bộ khung kết cấu gỗ với các bộ vì nóc làm theo kiểu “Thượng giá chiêng, chồng rường – hạ kẻ”. Chùa Xuân Lũng hiện lưu giữ được hơn 30 pho tượng chất liệu gỗ và thổ, được bài trí trên bệ xây. NGUỒN: Sở Du lịch tỉnh Lào Cai

Phú Thọ 1982 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Xa Lộc

Trải qua hơn 700 năm thăng trầm, ngôi đền Xa Lộc ( Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ, Việt Nam) vẫn còn nguyên giá trị vốn có, là nơi để nhân dân gần xa tỏ lòng biết ơn trước đức hi sinh, lòng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước của dũng tướng Lân Hổ Hầu - Đô thống Đại Vương. Năm 1991, Đền Xa Lộc đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày nay, cùng với việc lưu giữ, bảo tồn các hiện vật trong ngôi đền, chính quyền địa phương đã tích cực huy động nguồn vốn xã hội hóa để tiếp tục tu bổ và tôn tạo đền, phát huy ý nghĩa tinh thần to lớn không chỉ với người dân của xã Tứ Xã mà còn thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đền Xa Lộc có kiến trúc được xem như điển hình của nghệ thuật kiến trúc thờ tự trên địa bàn tỉnh. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Nhị gồm Đại Bái và Thượng cung. Lưng Đền dựa vào thế Đền Tổ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, Đền hướng Nam, xung quanh thủy tiên bao bọc. Nhà Đại Bái có 3 gian, để chiêng, trống, ngựa thờ, khám thờ với gươm, đao, giáo mác được sơn son thiếp vàng. Đây cũng là nơi thờ vong linh các liệt sỹ đã hy sinh trong các trận chiến đấu bảo vệ quê hương. Bên trong Đại Bái là Thượng Cung thờ thần Lân Hổ và thờ Phùng Sáo Đá và Phùng Sáo Đen - hai vị cận quân tài giỏi của thần Lân Hổ. Hai bên tay trái và phải là nhà tả hữu mạc được xây dựng với kiến trúc đơn giản, ba gian để bà con, dân làng, du khách thập phương chuẩn bị lễ vào đền thắp hương. Điều ấn tượng đối với mỗi người khi đến với Đền Xa Lộc chính là khuôn viên bên trong đền đều được bao phủ bởi các cây cổ thụ, tạo bóng mát và không khí trong lành. Năm 2017, Đền được mở rộng thêm khuôn viên rộng hơn 1ha, với ao sen và cổng tam quan, tạo nên nét uy nghi, đẹp đẽ cho ngôi đền. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1984 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Mẫu Âu Cơ

Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ là nơi thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Từ lâu, trong tâm thức của muôn dân đất Việt, Đền Mẫu Âu Cơ gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ đã trở thành một nét đẹp trong tinh hoa văn hóa của người Việt, là biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội con Lạc cháu Hồng của muôn dân đất Việt. Trong thời kỳ hội nhập, nghiên cứu giá trị của Đền Mẫu Âu Cơ gắn với phát triển du lịch tâm linh về cội nguồn dân tộc là hướng đi bảo tồn và phát huy giá trị nhiều mặt của di sản. Từ trung tâm thành phố Việt Trì, theo hướng cao tốc Nội Bài - Lào Cai chỉ hơn một giờ đồng hồ là du khách đến Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Đến đây, mỗi người con đất Việt không chỉ có được những khoảnh khắc yên bình, mà còn được đắm chìm trong không gian huyền thoại về hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng. Hình tượng này đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Tương truyền rằng, nàng Âu Cơ là “Tiên nữ giáng trần”, không chỉ rất xinh đẹp, “so hoa hoa biết nói, so ngọc ngọc ngát hương” mà nàng Âu Cơ còn chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật nên thường được gọi là “Đệ nhất tiên thiên công chúa”. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân- con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói rồi, bèn chia 50 người theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển, chia nước ra để cai trị lưu truyền dài lâu. NGUỒN:BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1949 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Chu Hưng

Lễ hội Đền Chu Hưng ở xã Ấm Hạ, huyện Hạ Hòa gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của di tích lịch sử Quốc gia Đền Chu Hưng. Đây là nơi thờ tự Côn Nhạc Đại Vương - người có công đánh giặc bảo vệ giang sơn bờ cõi Chu Hưng vào thời kỳ Vua Hùng thứ 18 - Hùng Duệ Vương. Nhân dân Chu Hưng tỏ lòng thương kính Côn Nhạc Đại Vương nên đã tấu trình lên vua Gia Long xin xây ngôi đền để đời đời khói hương phụng thờ Ngài. Vào tháng 7 - 1806 vua Gia Long đã chính thức chuẩn tấu cho nhân dân Chu Hưng khởi công xây dựng ngôi đền, tọa lạc ở địa thế của một vùng đất linh thiêng, trên đỉnh quy sơn xa xa nơi cửa đền là đỉnh núi Kim Quy - Rùa Vàng. Từ đó đến nay, cứ vào ngày lễ Tết, nhân dân Ấm Hạ nói riêng và nhân dân Hạ Hòa nói chung lại tổ chức thắp hương tế lễ để tỏ lòng tôn kính vị thần và mở hội làng vào ngày mùng 7 tháng Giêng hàng năm. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1910 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình đền Mạo Phổ

Đình đền làng Mạo Phổ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị như 6 đạo sắc phong, khám thờ, kiệu, những bức cổn chạm khắc rồng phượng bằng gỗ có niên đại cuối Lê đầu Nguyễn… Hằng năm, vào 4 dịp kỳ cầu, người dân làng tổ chức lễ hội với phần tế lễ, rước kiệu và những trò chơi dân gian đặc sắc. Đình đền Mạo Phổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc cấp quốc gia năm 1993. Khu di tích đình đền Mạo Phổ được xây dựng từ thời Hậu Lê với quy mô kiến trúc chia làm 2 phần: đình và đền. Đình và đền nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, hướng về phía Đông nhìn ra bãi bên bờ sông Thao. Hiện nay, ngôi đình cũ đã được những người con của làng quê Mạo Phổ đã phát tâm tu sửa, nâng toàn bộ kiến trúc đình lên cao cho trang nghiêm hơn, rộng rãi hơn, xứng đáng hơn với tầm vóc của các vị thần thánh tại đây. Miếu Đức bà Mạo Phổ là nơi thờ phụng Thánh mẫu Duyên Hòa, trước đây được lập ở một nơi riêng biệt. Trong quá trình xây dựng đường đê đi qua làng, miếu cũ đã được dời đến nơi mới trong cùng khuôn viên với đình và đền làng. Trong miếu còn lưu được di tượng của Thánh mẫu linh thiêng và uy nghiêm. Không chỉ đình đền miếu được người dân Mạo Phổ làm lại cho trang nghiêm hơn mà vào dịp này, nhờ một nhân duyên hiếm có, nội dung bản ngọc phả làng Mạo Phổ bị thất lạc trước đây đã được đưa về đúng với nơi thờ tự của nó. Với điềm chim Phượng ngậm chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ khi các vị Đại vương Bút Lôi Mao ra đời cho phép liên hệ với dòng Phượng theo mẹ Tiên Âu Cơ lên núi, sáng tạo ra những chiếc trống đồng vang vọng như tiếng sấm, trên đó khắc đúc hình người đội lông mao, là sự xưng danh dân tộc trường tồn từ thời Hùng Vương. NGUỒN: Bách Việt trùng cửu

Phú Thọ 2035 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phúc Ân

Chùa Phúc Ân được xây dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ thứ 18), đại trùng tu vào năm 1972. Hiện nay, tòa Tam bảo chùa Phúc Ân vẫn giữ nguyên dáng vẻ kiến trúc cổ với mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Khẩu gồm: Tòa Tiền đường, hai dãy tả, hữu hành lang và tòa Chính điện. Tòa Tiền đường 5 gian 2 dĩ, 6 hàng chân cột với tổng số 40 cột, có 4 bộ vì kèo giữa kết cấu theo kiểu chồng đấu cột đội con lợn, hai vì đốc kết cấu chồng, giá chiêng. Bộ khung gỗ được liên kết cột xà - kẻ chuyền chắc khỏe, đóng bén bào trơn, các chân cột kê trên đá tảng, mái lợp ngói mũi thời Lê. Nét độc đáo ở tòa Tiền đường là tạo mái hiên rộng hơn để chắn nắng, gió mưa, chỉ có 2 đầu đao cong mái trước, phần cổ diêm làm song bưng ván, hệ tường xây gạch nhưng để hàng cột hai đốc chạy dài thông với hành lang nối thượng điện tạo sự bề thế cho ngôi chùa khi đứng ở mọi hướng. Hai dãy tả, hữu hành lang chạy song song nối Tiền đường và Thượng Điện thực chất bên trong mỗi bên 3 gian, song nhìn từ phía sau lại là 6 gian dài thông suốt. Mỗi dãy có 3 hàng chân cột tổng số cả dãy là 18 cột gỗ. Kiến trúc ở đây cho thấy sự tính toán chính xác, khéo léo của nghệ nhân xưa: Với 3 hàng cột đứng đất và một hàng chân cột đội trên xà ngang để tạo thành hai mái nhà cân xứng mà diện tích sử dụng không bị hẹp, lòng nhà được mở rộng nhờ các kẻ truyền liên tiếp đó là kỹ thuật truyền thống của Việt Nam. Tòa Chính điện làm song song với Tiền đường, được bố trí cao hơn qua cách làm giật cấp. Thượng điện gồm 3 gian, 5 hàng chân cột với 18 cột gỗ, hệ mái độc đáo theo kiểu "Tiền tam, hậu nhị", tường hồi bít đốc, phần cổ diêm của mái trước của mái được làm chấn song con tiện thông thoáng, 4 vì kèo kiểu thức "Thượng giá chiêng, chồng rường - hạ kẻ", trần lát ván gỗ lim tiêu biểu cho truyền thống nhà cổ Việt Nam. Chùa Phúc Ân hiện có 22 pho tượng thờ được bài trí hai bên trong tòa Tiền đường và các lớp tượng trên Thượng điện giật cấp trong tòa Chính điện. Trong đó, tiêu biểu là bộ tượng Tam thế mang phong cách nghệ thuật tạo tác tượng tròn thế kỷ 18. Chùa Phúc Ân hiện bảo lưu hệ thống di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu: Chuông đồng "Phúc Ân tự trung", cao 0,90m, đường kính 0,50m; Khánh đồng dài 1,05m, rộng 0,90m. Chuông và khánh được đúc vào năm Minh Mệnh tam thập tam niên -năm 1832, quai chuông và khánh được tạo thành những vân kỷ hà, khánh được tạo dáng hình một chiếc lá đề khổng lồ. Trên thân chuông và khánh khắc chữ Hán ghi tên những người công đức tu sửa chùa Phúc Ân. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LÂM THAO

Phú Thọ 1816 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hạ Bì Trung

Đình Hạ Bì Trung nằm trong hệ thống các di tích lịch sử thờ Đức Tản Viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh ở vùng ven sông Đà và vùng trung du Bắc Bộ. Đình được làm bằng tranh, tre, nứa lá ngay sau khi dân làng chuyển từ hữu ngạn về tả ngạn sông Đà vào cuối thế kỷ 18. Đến năm Đinh Hợi năm 1827, ngôi đình được xây dựng bằng gỗ đinh, lim, tường xây, ngói lợp trên một thế đất bằng phẳng, nhìn theo hướng Đông Nam. Bên cạnh Tản Viên Sơn tam vị, Đình Hạ Bì Trung còn thờ Thành hoàng làng đã có công khai dân, lập ấp, lập nên trang Hạ Bì; cùng phối thờ còn có Bản thổ long cung, Tiên Dung công chúa, Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp – người có công truyền bá chữ Hán vào Việt Nam. Sau một thời gian dài với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều hạng mục công trình của đình đã bị hư hỏng. Những nét truyền thống còn lưu giữ lại được đó là hệ thống dui mè, hoành, bộ câu đầu, 8 cột cái, ban thờ ba vị thánh Tản Viên Sơn, bát nhang, hai sáp cắm nến, ống hoa… và nghi thức tế lễ vẫn được thực hiện theo các nghi lễ truyền thống. Năm 2007, được phép của ủy ban nhân dân tỉnh, nhân dân trong làng đã đóng góp, công đức trên 500 triệu đồng tu bổ và phục dựng lại một số hạng mục công trình trong di tích. Ngày 13-3, bà con nhân dân trong xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) và du khách thập phương đã vui mừng đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình Hạ Bì Trung. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 1813 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoàng Long

Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoàng Long, xã An Đạo - huyện Phù Ninh là ngôi chùa cổ có niên đại hơn 300 năm, là một trong những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, nơi hội tụ những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh vượt trội, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định ngày 19/01/2001, đã được chính quyền các cấp từ tinh, huyện, đền cơ sở có nhiều chính sách quan tâm, tạo cơ chế đề Ban trị sự phật giáo tỉnh cử sư thầy về trực tiếp quản lý, nhiều chính sách đầu tư tu bổ, trùng tu, tôn tạo, xây mới nhiều hạng mục công trình. NGUỒN: TỈNH PHÚ THỌ

Phú Thọ 2010 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đạm Xuyên

Đình Đạm Xuyên tọa lạc ở xã Tiền Châu thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Đình thờ 3 vị thần là Cao Bi Hùng Thánh Đại Vương; Dương Uy Phấn Vũ Đại Vương và Thủy Tinh Thần nữ công chúa. Đình nằm trên khu đất rộng khoảng 1.000m², có diện tích xây dựng là 220m², hướng Tây Nam. Ngôi đình gồm ba phần chính: đại đình, hậu cung và hậu tế, tạo thành hình chữ “Công”, một kiểu kiến trúc đặc trưng phổ biến trong các đình chùa cổ của Việt Nam. Đình được xây bằng gạch vuông cổ, với mái lợp ngói mũi hài và đầu đao được tạo dáng rồng cuốn, thể hiện sự uy nghiêm và truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn có chấn song con tiện, giúp không gian bên trong ngôi đình luôn thông thoáng. Tòa đại đình (tiền tế) có 5 gian, là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng; tòa hậu tế có 3 gian, và hậu cung có 2 gian, là nơi thờ cúng chính. Tất cả các cột và vì kèo trong đình đều được làm bằng gỗ lim, loại gỗ nổi tiếng với độ bền cao, mang lại sự vững chắc cho công trình. Nghệ thuật chạm khắc trên gỗ của đình rất công phu và tinh xảo, lấy đề tài từ tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng, biểu tượng cho sự thịnh vượng và quyền uy. Đặc biệt, các nét chạm trổ ở 4 “cổn” theo kiểu “lộng” với hình rồng cuốn được thực hiện một cách mềm mại, uyển chuyển, thể hiện rõ thần thái của rồng đang cuộn mình bay lên, tạo nên một hình ảnh sống động và mạnh mẽ. Ngoài ra, một số chi tiết chạm khắc khác trên các bức thuận và đầu kèo như cảnh “sư tử vờn cầu” và “tùng lộc mai điểu” mang đến sự sinh động, bay bổng, thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân. Những chi tiết này không chỉ là điểm nhấn thẩm mỹ mà còn phản ánh giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc đình làng Việt Nam. Sự tồn tại của đình Đạm Xuyên là minh chứng cho sự sáng tạo và tâm huyết của người xưa, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa dân tộc. Hiện tại, đình làng Đạm Xuyên vẫn còn bảo tồn được ba cỗ ngai thờ, gồm một ngai bà và hai ngai ông, tất cả đều được sơn son thếp vàng tinh xảo. Trong tòa đại đình, ba câu đối cổ có niên đại hàng trăm năm vẫn được gìn giữ. Đình cũng có hai cỗ kiệu bát cống, trong đó một cỗ thuộc thời Lê và một cỗ thuộc thời Minh Mạng. Đáng chú ý, hiện vật bằng đá còn lại là một tấm bia được lập vào năm Tự Đức 1870, ghi chép về sự tích của ba vị thần được thờ tại đình. Ngoài ra, đình còn lưu giữ tám đạo sắc phong, phần lớn từ thời Nguyễn (1810-1924). Những hiện vật này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn phản ánh đậm nét văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng dân cư qua nhiều thế kỷ. Các hiện vật tại đình làng Đạm Xuyên không chỉ là biểu tượng của truyền thống và sự tôn kính mà còn là minh chứng cho sự liên tục của văn hóa địa phương trong dòng chảy lịch sử.

Phú Thọ 2089 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Chùa Biện Sơn - Yên Lạc

Biện Sơn là ngôi chùa đẹp của huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc, được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1996, tọa lạc trên một gò đất cao rộng khoảng 1.5 ha. Xưa kia chùa có tên là Độc Nhĩ, người dân địa phương hay gọi là Núi Biện với dáng quy xà hợp hình rất kỳ lạ. Sử sách còn ghi, vào năm Thành Thái thứ 16, chùa đã được làm với kiến trúc kiểu chữ Môn. Do biến thiên của thời gian, ngôi chùa không còn giữ được kết cấu kiến trúc cổ ban đầu mà được trùng tu, tôn tạo theo kiểu chữ Đinh, kiểu kiến trúc mang đậm phong cách triều Nguyễn gồm 2 tòa bái đường và chính điện. Xung quanh ngôi chùa cảnh vật yên ả, hữu tình, dưới những cây cổ thụ nhiều năm tuổi bao phủ một màu xanh kỳ vĩ. Từ tỉnh lộ 303 đi vào, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầu tiên của ngôi chùa, đó chính là Tam quan. Tam quan được thiết kế theo kiểu trùng diên ba tầng 12 mái và được trang trí hết sức cầu kỳ, tinh xảo. Từ Tam quan có con đường nhất chính đạo gồm các bậc đá được xây theo một triền dốc thoai thoải. Chùa được xây dựng theo thế nội công, ngoại quốc. Trong khuôn viên chùa, có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường ở phía sau làm thành một khu hình chữ nhật bao quanh lấy nhà tiêu hương. So với các ngôi chùa khác trong vùng, chùa Biện Sơn còn bảo lưu được một hệ thống tượng pháp hơn 40 pho và còn lưu giữ được nhiều bảo khí và cổ vật có giá trị. Các pho tượng ở đây được tạo tác rất đẹp, sơn son thếp vàng lộng lẫy, chau chuốt tỉ mỉ, mang đậm phong cách tạo tác thời Lê. Một điểm nổi bật trong công trình kiến trúc phật giáo ở chùa Biện Sơn là tòa Bảo tháp bằng đồng nguyên khối nặng 12 tấn, là một trong số Bảo tháp lớn nhất trong cả nước, lưu giữ nhiều xá lợi Phật, đặc biệt là tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng ngọc xanh nguyên khối…Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã viên tịch và nhà tăng, nơi ở của các nhà sư. Nằm ngay sau tòa thượng điện, chúng ta được chiêm ngưỡng một kiến trúc vô cùng độc đáo nữa, đó chính là tháp quay hay còn có tên gọi khác là cối kinh. Ngày nay, chùa Biện Sơn trở thành điểm dừng chân, tham quan, nghiên cứu của đông đảo du khách trên lộ trình tìm về với cội nguồn dân tộc, là nơi diễn ra lễ hội sông Loan - núi Biện đậm đà bản sắc dân tộc, thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách, phật tử gần xa về chiêm bái, thưởng ngoạn. Nguồn: visitvinhphuc

Phú Thọ 2659 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Đền Thánh Mẫu

Di tích lịch sử đền Thánh Mẫu nằm tại tổ dân phố Minh Lương, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đền Thánh Mẫu có tổng diện tích là 6.705m2, trong đó diện tích xây dựng khu thờ tự là 3.114 m2 được khởi dựng từ lâu đời, kiến trúc hiện còn mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc xưa. Đền có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 5 gian 2 dĩ và hậu cung 3 gian. Bố cục tổng thể của di tích bao gồm: Cổng nghinh môn, hệ thống hàng rào, nhà tiền tế, nhà hậu cung, nhà tả vu, nhà hữu vu, nhà hóa vàng, hệ thống sân vườn nội bộ. – Cổng Nghinh môn: gồm lối đi chính và 02 lối đi phụ. Lối đi chính được hình thành bởi 02 cột đồng trụ lớn, cột đồng trụ, chân đắp lộc bình, đầu cột đắp quả giành và cánh phong bởi tứ phượng, thân được đắp chỉ nổi và viết chứ nho tại 03 mặt cột. Lối đi phụ gồm 02 lối đối xứng. Lối đi được hình thành bởi cột đồng trụ nhỏ và hệ thống tường rào, lối phụ được đắp 02 tầng mái đao cỡ nhỏ. – Nhà tiền tế: được xây dựng hình chữ nhất, kiểu kiến trúc tầu đao lá mái, con chồng, giá chiêng. Toàn nhà được làm bằng gỗ, hệ thống cửa bức bàn, mái lợp ngói mũi hài, công trình có giá trị văn hóa nghệ thuật rất đẹp. – Nhà hậu cung: được xây dựng hình chữ đinh, kiểu kiến trúc tầu đao lá mái, bít đốc phần hậu cung, bên trong các cấu kiện bằng gỗ kiểu con chồng, giá chiêng. – Bia lịch sử: được xây dựng những năm 1992, trên đó ghi sơ bộ lịch sử hành trạng của Thánh mẫu và lịch sử ngôi đền, bia cao 1,8m, trên bia khắc chữ màu vàng một mặt trước. Chân bia ngự trên để là lưng cụ rùa, phần đế bia làm bằng đá thanh hóa vuông. – Nhà tả vu và nhà hữu vu: công trình được xây dựng khá lâu, công trình xây theo kiểu chữ nhất. Đền Thánh Mẫu là nơi thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa. Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hoà thuộc di duệ họ Triệu, ngọc phả ghi lại “Thánh Mẫu thuộc dòng dõi Vua Hùng Vương thứ 18” và đã từng làm thứ phi vua Vệ Dương Vương. Từ khi họ Triệu mất nước, bà phải trốn tránh quân Hán, sống lưu lạc rồi đến cư ngụ ở chùa Quảng Hưu, xã An Lãng, huyện Chu Diễn; nay là xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên. Bà vốn là người con gái xinh đẹp tài sắc vẹn toàn. Bà có 5 người con trai, cả 5 đều có sức tài hùng dũng, chí khí hơn hẳn người thường, lại tinh thông võ nghệ, giỏi văn chương, ý chí như biển rộng. Tương truyền, 5 người con của bà được sinh ra cùng một bọc do giấc mộng tình với vị thần Vịt ở xứ này, nở ra từ 5 quả trứng. Cũng bởi vậy, Bà đặt tên cho 5 con đều có chữ “áp Lang”, nghĩa là chàng Vịt. Sau này Thánh Mẫu hóa tại gò Minh Lương vào ngày 10-11 âm lịch và được nhân dân mai táng ở khu Minh Lương (Tổ dân phố Minh Lương). Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, 5 người con của Thánh Mẫu đã khôn lớn, năm anh em đều đến hội với Bà Trưng ở cửa sông Hát, đem theo hơn 1000 người là dân bản địa. Được Hai Bà Trưng giao nhiệm vụ đốc xuất thủy quân, lục quân đánh thành Luy Lâu, năm vị Áp Lang chỉ huy quân đại phá một trận quyết liệt, Thái thú Tô Định thua to phải chạy về nước. Do lập được nhiều chiến công hiển hách nên cả 5 vị đều được Hai Bà Trưng ban thưởng, phong chức tước, trở thành 5 vị Đại Vương, phong mẹ của 5 anh em là “Quốc mẫu hoàng hậu công chúa”. Nhờ sự giúp sức của năm anh em chàng Vịt và cùng nhiều các vị tướng tài giỏi khác. Chỉ trong thời gian ngắn Hai Bà đã thu phục được 64 thành trì. Bà Trưng Trắc xưng vương. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và các tướng sỹ, với sự giúp sức của nhân dân cả nước thắng lợi rực rỡ, giang sơn trở lại thái bình. Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, hiệu là Trưng Nữ Vương, các tướng sỹ đều được phong thưởng. Khi giặc Hán trở lại cướp nước ta một lần nữa, dưới sự chỉ huy của Hai Bà Trưng, năm vị Áp Lang cùng các tướng đã chiến đấu rất dũng cảm song thế giặc mạnh nên quân ta chống cự không nổi. Hai Bà bại trận tại Cấm Khê, 5 vị tướng từ trong vòng vây của quân thù đã mang được thi hài Hai Bà an táng ở Hi Sơn (thuộc làng He, phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên), năm Áp Lang chạy về bản ấp tuẫn tiết để bảo toàn khí tiết. Ghi nhớ công lao của năm vị Áp Lang cùng thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa, nhân dân An Lãng đã lập đền, miếu để thờ cúng. Thời Vua lê Thánh Tông năm thứ 12 niên hiệu Hồng Đức (1460-1497) phong sắc cho Thánh Mẫu và 5 vị thần được thờ: Xã An Lãng phân thành xã Xuân Lãng, xã Hợp Lễ thôn Minh Lương cùng phụng sự Thánh Mẫu và 5 vị thần. Về sau, các triều vua đều gia ban mỹ tự và chuẩn cho tứ xã (Yên Lan, Xuân Lãng, Minh Lương, Hợp Lễ) phụng sự các vị. Bà Triệu Thị Khoan Hoà tuy không trực tiếp đứng dưới cờ của Hai Bà Trưng, nhưng bằng sự giáo dưỡng của Bà, năm người con trai đã trở thành những vị tướng lĩnh tài giỏi và hiếu nghĩa giúp Hai Bà Trưng giành được độc lập. Sau này Bà được nhân dân tôn xưng, lập đền thờ tự khi bà mất. Danh hiệu Mẫu của Bà được suy tôn từ trong số các nữ thần được thờ cúng trong một số làng xã tại Vĩnh Phúc. Trải qua các triều đại, Bà được truy phong ở hàng Thánh Mẫu năm Khải Định thứ 9 (1924) và sau này là “Thượng Đẳng Phúc Thần” được toàn dân thờ phụng, tưởng niệm với lòng thành kính. Hiện nay, tại thị trấn Thanh Lãng di tích thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và 5 vị Áp Lang là: Đền Thánh Mẫu (xếp hạng quốc gia) thờ Quốc mẫu Hoàng hậu công chúa Triệu Thị Khoan Hòa, đền Xuân Lãng (xếp hạng quốc gia) thờ Ô Mễ đại vương, đình Hợp Lễ (xếp hạng cấp tỉnh) thờ Quý Minh đại vương và miếu Yên Lang (xếp hạng cấp tỉnh) thờ Trình đình Áp Lang Nga hoàng đại vương, Giám sát Nhung vụ đại vương, Cương đoán đại lộ đại vương. Với tấm lòng thành kính, ghi nhớ công ơn các bậc tiền nhân, ngày 11-5-2017, Ban quản lý di tích lịch sử đền Thánh Mẫu, thị trấn Thanh Lãng đã làm lễ khởi công xây dựng bia tưởng niệm ngũ vị Đại Vương tại khu gò mối nơi tuẫn tiết của 5 vị tướng. Qua đó không chỉ góp phần tôn lên vẻ đẹp không gian, cảnh quan cho khu di tích mà còn góp phần bảo tổn, giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, giúp thế hệ hôm nay và mai sau luôn trân trọng tri ân công lao dựng nước và giữ nước của tổ tiên và ông cha ta. Nguồn: Sở văn hóa, thể thao và du lịch Vĩnh Phúc.

Phú Thọ 2447 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đào Xá

Đình Đào Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy; thờ Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân). Đình Đào Xá được xây dựng vào thời vua Lê Gia Tông – Niên hiệu Đức Nguyên (1674-1675), kiến trúc kiểu chữ Nhất, một tòa 3 gian 2 dĩ, quay hướng chính Nam. Ngôi đình có cách đây trên 300 năm nhưng vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn giá trị của di tích. Về kiến trúc, chủ yếu bằng gỗ và nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ trên hệ thống kẻ (12 cái kẻ được chạm trổ cả hai mặt) với các đề tài: “Long mã phụng đồ”, “Tứ linh”, “Long cuốn thủy”, “Bánh trưng”, “Bánh giày Lang Liêu”; các điển tích:”Văn vương xuất liệp”,”Cao Biền tầm địa”,”Mả táng hàm rồng”,”Mẫu long huấn tử”,”Cao đế nhập quan”,”Lý ngư võng nguyệt”…Với những giá trị kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo và quý giá, đình Đào Xá đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 13 tháng 3 năm 1974. Đền Đào Xá (Còn gọi là đền Tam Công) cách Đình Đào Xá về hướng Đông Bắc chừng trên 400m. Theo ngọc phả của đền thì nơi đây đã từng ghi dấu công cuộc trị thủy của Đức Hùng Hải Vương và là nơi Lý Thường Kiệt từng luyện tập thủy quân chống giặc Tống và là nơi manh nha khởi nguồn bài thơ thần nổi tiếng của Lý Thường Kiệt. Đền Đào Xá có kiến trúc kiểu chữ Tam. gồm ba tòa tiền tế, trung tế và hậu cung bố cục hài hòa, cân đối tạo dáng vẻ thanh nhã và vẫn uy nghiêm, thoáng đãng, sáng sủa mà vẫn trầm mặc, u tịch. Lễ hội Đào Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngày 21 tháng 11 năm 2016. Lễ hội Đào Xá mang tính tín ngưỡng của người Việt không thể tách rời giữa đình và đền được gắn liền với sự tích thờ Đức Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân) và vợ là bà Trang Hoa và ba vị đại vương con của Hùng Hải Công. Đình và đền Đào Xá còn thờ bà Quế Hoa công chúa họ Trần có công bày trò múa hát mua vui cho bà Trang Hoa trước khi sinh hạ ba vị Tam Công. Lễ hội đình, đền Đào Xá được tổ chức vào những ngày âm lịch trong năm: Ngày mồng 3 tháng Giêng mở lễ hội múa “Xuân Ngưu” (gọi là múa trâu), là điệu múa dân gian mang tính tín ngưỡng, mô phỏng lại trò mua vui (mang tính khôi hài) của bà Quế Hoa cho phu nhân Hùng Hải; ngày 27, 28, 29 tháng Giêng là Lễ hội rước voi; tháng ba tổ chức ngày lễ kỷ niệm ngày Đức thánh Phụ hóa và lễ kết chạ với làng Dậu Dương; tháng 4 làm lễ cầu yên; ngày mồng 5 tháng 5 kỷ niệm ngày sinh đức Thánh Phụ. Đặc biệt Đào Xá có lễ hội cầu tháng 7 được tổ chức từ ngày mồng 9 đến ngày 15 có tên gọi là: “Hiến thần phù vua Lý đánh giặc Tống”, với lễ hội bơi chải vào lúc nửa đêm diễn lại cảnh quân Lý Thường Kiệt đón quân thuyền của thần linh vào đền làm lễ cầu thần đặc sắc của vùng trung du mang đậm dấu ấn thời Hùng Vương. Ngày mồng 10 tháng 12 làng mở hội tế xuân, lễ tại đền thờ bà Quế Hoa và cũng là lễ thượng điền kết thúc vụ lúa chiêm duy nhất ở làng Đào Xá. Lễ hội Đào Xá chính là môi trường bền vững để nuôi dưỡng, bảo tồn những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp; để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đời sống tâm linh, nhu cầu giải trí tinh thần của các thế hệ người dân Đào Xá cùng cộng đồng gần xa. Sự gắn bó cộng đồng trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền thống luôn bền vững, là cội nguồn sức mạnh đoàn kết đã được minh chứng qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 3237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật