Di tích lịch sử

Việt nam

Di tích Nhà hội Bình Trước

Di tích nhà hội Bình Trước thuộc xã Bình Trước, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. Đây là một công trình kiến trúc đặc biệt của hương chức hội tề làng xã trước năm 1945. Nhà Hội được xây dựng vào khoảng năm 1936 dưới sự chủ trương của tỉnh trưởng Biên Hòa là Bolen. Nhà hội Bình Trước đã trở thành nơi họp và làm việc của hương chức hội tề địa phương. Có vị trí gần trung tâm thành phố, Nhà hội Bình Trước thu hút sự chú ý với kiến trúc dân gian uyển chuyển. Xây dựng bởi nghệ nhân về gốm và xây dựng của Biên Hòa, di tích này nổi bật với các tác phẩm gốm điêu khắc và kiến trúc gỗ tinh xảo, phản ánh nét đẹp của nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Mặc dù không phải là đình chùa, nhưng Nhà hội Bình Trước vẫn thể hiện nét trang nghiêm và độc đáo của kiến trúc đình làng, kết hợp nhiều nét đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Với diện tích 187,50m2, kiến trúc của nhà hội có mái ngói âm dương, trang trí gỗ và các bức phù điêu gốm tinh xảo. Đặc biệt hơn, Nhà hội Bình Trước còn ghi dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử Biên Hòa. Vào ngày 23-9-1945, Hội nghị cán bộ tỉnh Biên Hòa đã quyết định thành lập Tỉnh ủy đầu tiên sau khi giành được chính quyền vào tháng Tám. Đây là một trong những sự kiện quan trọng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Di tích nhà hội Bình Trước đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 1384 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Đại Giác( Đại Giác cổ tự)

Chùa Đại Giác còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay chùa Tượng; xưa thuộc thôn Bình Hoành, xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên; nay là khu phố Nhị Hòa, phường Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chùa Đại Giác có diện tích khoảng 3.000 m2 với hai cổng xây bằng gạch ra vào, xung quanh có tường rào bao bọc. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay chùa cất theo lối chữ tam (三) với ba dãy nhà ngang nối liền nhau. Mặt tiền chùa quay theo hướng Tây Bắc nhìn ra sông Đồng Nai. Giữa sân trước chùa là một cây bồ đề lớn, do Hòa thượng Đinh Tông trồng vào ngày rằm tháng 11 năm Kỷ Mão (1939) và pho tượng Phật Quan âm Nam Hải đứng trên tòa sen. Bên tả và phía sau là khu vườn rộng trồng cây trái, bên hữu là khu bảo tháp với nhiều mộ tháp của các vị trụ trì viên tịch. Tuy bên ngoài, mái hiên chùa thấp và có lối kiến trúc hiện đại, nhưng bên trong chùa, vẫn còn theo kiểu mẫu của các chùa xưa ở vùng Đồng Nai, với các cột tròn và cao vút, tạo không gian thoáng đãng. Chùa gồm chánh điện, nhà khách, phòng chư tăng, trai đường và nhà bếp. Chánh điện là căn nhà ba gian rộng lớn, dùng để thờ. Gian giữa: ở trên cao là đức tượng Phật A-di-đà bằng gỗ cao 2,25 m, phía dưới là tượng Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật Di-lặc. Phía gần cửa ra vào là giàn đèn Phật Dược Sư gồm 49 cây đèn dầu nhỏ với 49 tượng Phật bằng gỗ nhỏ, chân giàn đèn chạm trổ rất mỹ thuật. Gian bên trái là khánh thờ tổ sư Bồ-đề-đạt-ma. Gian bên phải là khánh thờ Quan thánh đế quân. Hai bên vách, mỗi bên thờ năm vị Diêm vương và hai Phán quan. Phía sau chánh điện là bàn thờ các tổ sư từng hoằng hóa ở chùa, gồm nhiều long vị của các Thiền sư phái Lâm Tế, trong đó có long vị của chư tổ xưa nhất các là Thiền sư: Thành Đẳng (phái lâm tế đời 34), Phật Ý-Linh Nhạc, Giác Liễu-Thiệt Truyền (đời 35), Tổ Ấn-Mật Hoằng (đời 36)... Nối liền với chánh điện là nhà khách, có thờ phật Chuẩn Đề, Linh Sơn thánh mẫu... Chùa Đại Giác cùng với chùa Bửu Phong và chùa Long Thiền là ba công trình kiến trúc tôn giáo Việt, được khởi dựng sớm nhất ở Đồng Nai và là chứng tích cho bước đường Nam tiến ở nửa đầu thế kỷ 17 của ba nhà sư thuộc dòng Lâm Tế ở Đàng Trong. Ngoài giá trị này, ở chùa Đại Giác còn có các tượng Phật, hoành phi, liễn đối, phù điêu...mang nhiều đề tài phong phú, được chạm khắc công phu, sơn son thiếp vàng. Tất cả đã thể hiện tài năng nhân chạm khắc của người tạo tác và phản ánh được ít nhiều nền mỹ thuật truyền thống vùng Đông Nam Bộ. Với những giá trị kể trên, chùa Đại Giác đã được xếp hạng là Di tích lịch sử và nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 993/Quyết Định, ký ngày 28 tháng 9 năm 1990. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đồng Nai.

Đồng Nai 1436 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Dốc Chùa

Di tích khảo cổ Dốc Chùa là di tích cấp Quốc gia xếp hạng năm 2001 (Quyết Định 53/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 28/12/2001), nằm trên bờ sông Đồng Nai, trên đường liên tỉnh lộ Tân Uyên đi Lạc An, thuộc ấp Tân Hòa, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên. ​Qua những đợt khai quật đã hình thành nhiều bộ sưu tập hiện vật có giá trị lịch sử và khoa học rất lớn. Các công cụ sản xuất bằng đá, gốm, đồng,… đặc biệt một bộ sưu tập gồm 76 khuôn đúc đồng và 68 công cụ vũ khí bằng đồng đã phát hiện trong di tích. Dốc Chùa trở thành một sưu tập hiện vật quan trọng biểu hiện cho một đỉnh cao phát triển của thời tiền sử vùng Đông Nam Bộ. Một di tích đa dạng và phong phú có nhiều yếu tố mới, sự hội tụ về kinh tế, kỹ thuật của xã hội phát triển cao, có niên đại từ 2500 – 3000 năm cách ngày nay. Trong đó, có Tượng Thú được công nhận Bảo vật quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1221 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Cù Lao Rùa

​​Cù Lao Rùa thuộc phường Thạnh Hội, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Xếp hạng di tích quốc gia năm 2009 (Quyết Định số 836/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 03/3/2009). ​​Di tích có niên đại phát triển qua hai giai đoạn (sớm từ 3500 – 3000; muộn từ 3000 – 2700 năm cách ngày nay). Tổng diện tích 277 hecta, độ cao 15m so với mặt bằng khu vực. Đây là một trong những điểm khảo cổ học được phát hiện đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, qua các cuộc khai quật khảo cổ phát hiện Cù Lao Rùa là khu di tích cư trú - mộ táng, với nhiều công cụ bằng đá, đồ gốm và hàng ngàn mảnh gốm vỡ các loại và nhiều mộ táng. Trải qua hơn 100 năm nghiên cứu, Cù Lao Rùa đã góp phần quan trọng bảo tồn di sản văn hoá thời tiền sử và danh thắng tỉnh Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1186 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà cổ Trần Công Vàng

Ngôi nhà tọa lạc tại số 21, đường Ngô Tùng Châu, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, trên một khu đất rộng 1.333m2, riêng phần chính (nhà trên) là 323m2, nhà phụ (nhà dưới) chiếm 119m2, được xây cất và hoàn thành vào khoảng năm 1889 – 1892. Ngôi nhà được công nhận di tích cấp Quốc gia ngày 07/01/1993. Nhà quay mặt về hướng Nam, lưng dựa vào ngọn đồi (nơi có trụ sở Ủy ban nhân dân Tỉnh bây giờ), đây cũng là cái thế đắc địa, nói theo các nhà phong thủy xưa. Xét về mặt vị trí địa lý của ngôi nhà cụ Vàng cũng như hai ngôi nhà cổ nữa của cánh họ Trần ở phường Phú Cường đều nằm gần con sông Sài Gòn, rất thuận tiện cho việc chuyên chở cây gỗ từ rừng về. Được biết, nội tổ của cụ Vàng đã từng làm nghề rừng, có trại cưa, xẻ gỗ. Công trình xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ đinh nghịch, tức là phần nhà ngang nằm bên trái nhà trên, thay vì nằm bên phải. Đây là nhà chữ đinh có cải tiến, có bộ phận sân con ngăn cách nhà trên và dưới, liên lạc giữa hai bộ phận bằng một nhà cầu nhỏ cắt đôi sân con làm hai phần cửa của nhà dưới trổ ra nơi đầu sân con ấy mà không trổ ra ở đầu hồi, cái cửa này cũng được kiến trúc một cách đặc biệt, mới nhìn giống như một số cổng đền người Hoa, nhưng chủ nhân lại bảo phóng theo kiểu đền của Ấn Độ. Cũng như nhiều nhà khác, nhà cụ Vàng có bộ khung sườn làm theo kiểu nhà xuyên trính, nhưng có đến 8 đấm, 8 quyết ở hai chái nhà. Bộ trính, trổng, cối đều được đẻo gọt khéo léo, trính uốn xong có tạo gờ, các đoạn kèo được chạm tỉ mỉ, công phu, hàng lá dung thẳng tắp ở hàng cột thứ ba. Toàn phần nhà trên đếm được 48 cây cột tròn, tất cả đều đứng xa vách. Phần trang trí bên trong ngôi nhà là phần làm cho du khách thích thú nhất, đó là sự chạm khắc công phu, từ chân cột đến mái nhà, bàn ghế tủ ghế, trang thờ các khung cửa các ô lồng… hoành phi, liễn, đối, những bức tranh tứ bình, những tấm thủ quyển… tất cả đều chạm trổ, sơn thếp cẩn xà cừ công phu khéo léo, làm cho ngôi nhà tráng lệ mà trang nghiêm. Nhìn chung, những mô típ chạm khắc ở đây thường mang tính ước lệ, tượng trưng, trong đó thể hiện ước muốn một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, và một nết sống nhân nghĩa, đạo đức… Những đường nét chú trọng sự uyển chuyển, mềm mại. Các hình ảnh chạm khắc gồm cây cỏ, hoa lá, chim thú, vật dụng, những đường hình học. Riêng tấm thủ quyển treo ở bàn thờ bên phải từ trong nhìn ra chạm hình Tùng Lộc, Mã Dương có kèm theo hai câu thơ chữ Hán tạo được cái vẻ thanh thoát, nhã đạm, tiêu sái. Phân bố mặt bằng của ngôi nhà,Trước hết là nhà trên, nhà có 5 gian hai chái, phần thờ phụng, tiếp khách, các buồng để ở và chứa đồ đạc của cải được ngăn chia rạch ròi. Phần thờ phụng chiếm ba gian dựa theo nguyên tắc gian bên trái thờ cha mẹ của chủ nhà, bên phải thờ ông bà, bàn thờ giữa thờ ông bà cao hơn gọi chung là gia tiên. Mỗi bàn thờ gồm tủ thờ cẩn xà cừ, bên trên là đồ ngũ sự, bên trong là bài vị hoặc chân dung người quá cố, sát vách lụa là bức thờ, trên có bài châm, câu đối, đầu bức thờ có phần Mi chạm “Lưỡng long tranh châu” và tấm thủ quyển. Hai gian hai bên là phòng ngủ của vợ chồng chủ nhân, phía sau vách thờ là dãy buồng chứa đựng đồ đạc... Trên các bàn thờ là những trang thờ có đặt các bài vị, đề quan thánh đế quân, thổ công, đông trù, tư mệnh, phước đức thánh thần, tài thần. Phần dành để tiếp khách gồm hai lòng căn (tức từ hàng cột thứ hai đến hàng cột thứ tư), nơi đây có đặt bàn ghế để tiếp khách, bao gồm ở gian giữa làm một bàn tròn lớn, mặt bàn lót đá cẩm thạch, trên bàn đặt giá Bát bửu (tám món binh khí cổ), chung quanh bàn có đặt ghế với chạm trổ tinh vi và giàu ý nghĩa tượng trưng. Hai bên bàn tròn ấy là những bàn hình chữ nhật đóng theo kiểu ghế chân nghi. Ở gian đầu là hai bàn hình hộp xoài, chung quanh đặt ghế kiểu hiện đại, tất cả các bàn ghế đều bằng gỗ. Dọc theo vách ngăn giữa phần tiếp khách và phần thờ có đặt những bàn nhỏ hình vuông bên trên có những đĩa trái cây bằng sứ, cũng nơi đây chủ nhân cho đặt một tấm Phả đồ nêu khái quát thế thứ của những người trong họ. Ở hai đầu chái nhà cũng có đặt bàn, bên trái trên bàn thờ để ảnh chủ nhân, có cặp đôi hai bên, bộ tranh tứ bình cở nhỏ, cặp câu đối và tranh tứ bình. Đặc biệt, trước của buồng ngủ đặt một cái tủ kiếng, bên trong chứa nhiều món quý như tiền cổ, nón quai thao, đồ cho cô dâu khi về nhà chồng, theo kiểu xưa… Nhà dưới là một căn nhà ngang, cất theo lối xuyên trính nhưng đơn giản hơn nhà trên. Nhà ngang dùng để tiếp khách bình thường, là nơi sinh hoạt gia đình, nhà ăn, nhà bếp,… phía trước nhà ngang là nhà xe hướng cửa ra cổng. Sân trước trồng nhiều chậu hoa kiểng, cây kiểng… tôn thêm nét đẹp cổ kính của ngôi nhà. Nhà cụ Vàng vừa mang tính nghệ thuật – nhân văn đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam; đồng thời, khẳng định kỹ thuật điêu khắc, chạm trổ đã có truyền thống lâu đời ở Bình Dương. Các hiện vật trang trí và đồ dùng trong nhà còn nhiều và hầu hết là cổ vật. Toàn bộ kiến trúc ngôi nhà và hiện vật bên trong, cho ta thấy được nét sinh hoạt của gia đình thuộc tầng lớp giàu có ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thể hiện sự phát triển về đời sống của cư dân người Việt trên đất Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1223 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Căn cứ Dương Minh Châu

Di tích Căn cứ Dương Minh Châu tọa lạc tại xã Phước Ninh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Dương Minh Châu là tên gọi của đồng chí Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Tây Ninh đầu tiên đã hi sinh anh dũng trong trận càn của Pháp vào căn cứ Bến Cây Chò (nay thuộc ấp Gò Nổi, xã Ninh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh). Ngày 07/02/1947 để khắc ghi công ơn và tưởng nhớ đồng chí, tỉnh đã lấy tên Dương Minh Châu đặt tên cho căn cứ. Chủ trương xây dựng căn cứ, nơi đứng chân xây dựng căn cứ lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài đã được tỉnh Tây Ninh đặt ra khá sớm, từ những ngày đầu chuẩn bị khởi nghĩa Nam kỳ. Đến năm 1948 do yêu cầu của cuộc kháng chiến tỉnh quyết định chọn vùng Trà Vong làm căn cứ địa của tỉnh bao gồm khu 4, khu 6, thêm phần đất của các xã Ninh Thạnh, Hảo Đước và Hòa Hiệp. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước tình hình nhiệm vụ mới, địa bàn căn cứ Dương Minh Châu tiếp tục mở rộng, phát triển rộng về phía Tây Bắc và phía Bắc biên giới Campuchia. Căn cứ Dương Minh Châu có vị trí địa thế được đánh giá là chiến lược quan trọng, hội tụ các tính chất của ba vùng chiến lược, trong đó vùng rừng núi chiếm vị trí đặc biệt, có thể liên hoàn ở phía sau, là một vùng rừng già rộng lớn ăn thông lên biên giới Campuchia, liên quan mật thiết với chiến khu D. Vùng rừng núi này đủ điều kiện “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” thuận lợi cho ta xây dựng căn cứ kháng chiến và cả hệ thống căn cứ vệ tinh xa, gần, tạo thế hậu phương chiến lược, vừa thuận lợi với việc chỉ huy, chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn miền. Căn cứ Dương Minh Châu như một cái gai đâm vào mắt kẻ thù. Địch rắp tâm “bình định”, “tiêu diệt”, còn ta quyết tâm bảo vệ, giữ vững vùng “đất thánh”, huyện căn cứ Dương Minh Châu và các vùng căn cứ liên hòan vừa là hậu phương, vừa là chiến lược nóng bỏng, giằng co giữa ta và địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ từ chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Căn cứ Dương Minh Châu là một trong những nơi tập kết của quân chủ lực tiến công giải phóng Sài Gòn. Trên thế tiến công thần tốc quân dân Dương Minh Châu cùng với quân dân Tây Ninh tự giải phóng mình, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Di tích Căn cứ Dương Minh Châu đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 61/1999/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 13/9/1999 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Trang thông tin điện tử Xã Thạnh Tân, tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh 1256 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Ban an ninh Trung ương cục miền Nam

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ khi thành lập tháng 7/1960. Ban An ninh miền là cơ quan trực thuộc Trung ương Cục miền Nam, liên tục bám trụ và xây dựng căn cứ Ở chiến khu Bắc Tây Ninh. Qua 15 năm chiến đấu và trưởng thành với 8 lần di chuyển và xây dựng căn cứ. Cuối năm 1972, Ban An ninh về đóng tại Bảy Bàu, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh cho đến ngày 30/4/1975. Khu di tích căn cứ Ban An ninh Trung ương cục miền Nam đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 3777/Quyết Định -Bộ Trưởng ngày 23/12/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch). Trong khu tôn tạo còn có 32 nhà bia của lực lượng an ninh các tỉnh miền Nam từ Quảng Trị đến Cà Mau. Mỗi địa phương một phong cách, một biểu tượng riêng, khắc hoạ hình tượng truyền thống đặc thù của mỗi vùng đất, nhưng đều tập trung và nêu bật bản anh hùng ca từ “Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng, đến Tây Nguyên bất khuất, đến Quảng Đà trung dũng kiên cường. Từ vũng Rô nối sóng đến quê hương đồng khởi Bến Tre, từ Ấp Bắc anh hùng đến Hòn Đất kiên trung, từ Rừng Sác-Nhà Bè đến Bình Long, Phước Long xây chiến thắng. Từ U Minh, Đồng Tháp đến Củ Chi đất thép thành đồng đều hội tụ về Tây Ninh, nơi căn cứ Bảy Bàu một thời kháng chiến”. Đây là khu di tích, một địa điểm du lịch khá hấp dẫn, bởi cảnh quan rừng chiến khu được bảo tồn nguyên vẹn, các hầm hào, đường đi, nhà ở được trùng tu tôn tạo kịp thời với nhiều công trình đẹp, nhất là tượng đài cao vót hoà quyện vào không gian cây rừng bao la tạo một vẻ đẹp hùng vĩ khắc hoạ bao chiến công oanh liệt của cách mạng miền Nam. Nguồn Trang thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh 1196 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm lưu niệm Vành Đai Diệt Mỹ Trảng Lớn

Địa điểm lưu niệm Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn tọa lạc tại thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Trảng Lớn trước đây được quân đội Mỹ chọn xây dựng, vừa là căn cứ quân sự, vừa là hậu cần cho nhiều căn cứ khác như Đồng Pan, Thiện Ngôn. Từ tháng 10/1965 đến tháng 04/1972 nơi đây là căn cứ của Sư đoàn bộ binh số 25 của Mỹ được gọi là “Tia chớp nhiệt đới”. Trước mưu đồ mở rộng chiến tranh của Mỹ, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chủ trương thành lập ngay thế trận bao vây xung quanh căn cứ Trảng Lớn, tạo thành Vành đai diệt Mỹ khép kín. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn là một trong ba vành đai diệt Mỹ xuất hiện đầu tiên ở Đông Nam Bộ bao gồm 8 xã bao vây căn cứ Lữ đoàn 196 Mỹ. Ra đời, tồn tại và củng cố, phát triển, Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn đã làm nên những trận đánh tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn là một sáng tạo, một đặc điểm chỉ có ở Trảng Lớn, đã quy tụ được lòng người, tạo được sức mạnh tổng hợp tiến công địch bằng 3 mũi giáp công, 3 vùng giáp kích, bằng ba thứ quân, tạo ra nhiều cách đánh địch: đánh tại căn cứ, kết hợp đánh lớn, đánh nhỏ, đánh liên tục, ở đâu cũng đánh, lúc nào cũng đánh, bám thắt lưng địch mà đánh, kiềm chân, căng kéo địch, buộc chúng phải co cụm lại. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn và nhiều nơi khác trong tỉnh Tây Ninh đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong suốt những năm Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến ở Tây Ninh, góp phần làm rõ thêm một hiện tượng độc đáo, một hình thức đánh giặc sáng tạo, một biểu hiện rực rỡ của chiến tranh nhân dân. Đối với Tây Ninh đây còn là biểu tượng của truyền thống “Tây Ninh trung dũng kiên cường”. Với 2.250 ngày đêm chiến đấu trên Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn (từ tháng 10/1965 đến tháng 4/1972) Đảng bộ và quân dân huyện Châu Thành đã tiến hành 3.825 trận đánh Mỹ ngụy và bình định, lập nhiều thành tích vẻ vang, góp phần cùng cả nuớc đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Địa điểm Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 3990/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 12/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh 1229 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Vườn Quốc gia Cát Tiên

Vườn Quốc gia Cát Tiên được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập Khu rừng cấm Nam Cát Tiên, Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên và Khu Bảo tồn tê giác Cát Lộc, nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Lâm Đồng. Diện tích khu vực trung tâm của vườn là 71.920 ha, trong đó, 39.627ha thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, 27.850ha thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng và 4.443ha thuộc địa phận tỉnh Bình Phước. Vườn Quốc gia Cát Tiên là khu vực hiện bảo tồn được nhiều loại động, thực vật quý hiếm; là vùng quan trọng để duy trì hệ sinh thái rừng thường xanh lá rộng - môi trường sống duy nhất (hiện còn) của loài tê giác một sừng ở Việt Nam, khu vực Đông Dương cũng như trên thế giới. Độ che phủ của rừng tự nhiên trong khu vực này lên tới 80%, với hệ sinh thái đa dạng: rừng thường xanh ẩm, đồng cỏ và ngập nước. Địa hình tự nhiên xen kẽ các bàu, đầm, suối, cộng với hơn 90km sông Đồng Nai đã tạo nên cảnh quan đặc trưng cho vườn Cát Tiên, với những ghềnh, thác, các khu đất ngập nước và bán ngập nước,... Những dấu tích về địa chất, địa mạo minh chứng cho quá trình biến đổi của thiên nhiên ở khu vực này hàng triệu năm trước. Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Tiên là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, đã được UNESCO ghi danh. Theo số liệu thống kê, trong Vườn Quốc gia Cát tiên có 1.610 loài thực vật và 1.568 loài động vật. Trong đó, 31 loài thực vật và 84 loài động vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 50 loài chim được ưu tiên bảo vệ ở mức độ toàn cầu và được ghi vào Sách Đỏ IUCN, 2008). Đặc biệt, có 3 loài và phân loài thuộc đặc hữu của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong là chà vá chân đen, tê giác một sừng Việt Nam và hoẵng Nam Bộ. Vườn Quốc gia Cát Tiên đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1997. Trong khu vực Cát Tiên có nhiều địa điểm cảnh quan đẹp, như thác Trời, thác Bến Cự, thác Dựng, thác Mỏ vẹt, thác Nơkrót - Nơkrót... Một trong số những hệ sinh thái nổi bật ở đây là hệ thống sông và các bàu. Sông Đồng Nai, có diện tích lưu vực là 40.800 km2; đoạn chảy qua Vườn Quốc gia Cát Tiên dài khoảng 90km. Suối Đắc Lua dài khoảng 20 km, gom nước từ các bàu ra sông. Bàu Sấu là bàu lớn nhất, có diện tích mặt là 92,63 ha. Trong bàu có khoảng 100 cá thể cá Sấu Xiêm. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của loài cá lăng nổi tiếng. Bàu Cá là hồ nước tự nhiên, có diện tích mặt nước 74,3 ha. Bàu Bèo có diện tích 23,92 ha. Xung quanh bàu được bao bọc bởi nhiều cây gỗ lớn... Trong khu vực Cát Tiên còn có diện tích đồng cỏ khá rộng, nơi bảo tồn các loài thú lớn quý hiếm (bò tót, hoẵng), được bảo vệ tốt, hầu như không có tác động của con người. Về hệ thực vật của khu vực Cát Tiên: Nổi bật là rừng thường xanh lá rộng, với diện tích 17.819 ha, nơi có các loài thực vật chủ yếu thuộc họ dầu, như dầu rái, dầu lông,... cẩm lai Bà Rịa, cẩm lai, gõ, giáng hương,... và các loài gỗ lớn...; rừng thường xanh nửa rụng lá có diện tích 5.097 ha, gồm những loài cây gỗ rụng lá vào mùa khô, như bằng lăng ổi, râm,…, các loài cây gỗ lớn rụng lá và hồi lại vào mùa mưa; rừng cây gỗ xen tre nứa có diện tích 14.361 ha...; rừng tre nứa thuần loại có diện tích 29.805 ha, được hình thành dưới tác động của con người, với các loài tre Lồ Ô, mum, tre gai (la ngà); thảm thực vật ngập nước và bán ngập nước có diện tích 3.516 ha, phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm khu vực Nam Cát Tiên. Các dấu tích khảo cổ học cho thấy, trong khu vực này đã từng tồn tại một nền văn hóa cổ. Trong lịch sử, khu vực Cát Tiên và vùng phụ cận là không gian cư trú của nhiều dân tộc thiểu số: Mạ, Chơro, S’Tiêng, Mnông, Tày, Nùng, H'mông, Dao, Hoa, Mường, Ê đê,… Các dân tộc này hiện còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội đặc sắc, như lễ hiến tế trâu của người S’Tiêng và Mạ, lễ hội Sayangva (Mừng lúa mới) của dân tộc Chơro, lễ mừng lúa mới của dân tộc S’Tiêng và Mnông... Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận Vườn Quốc gia Cát Tiên là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 27/9/2012). Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Lâm Đồng 1434 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Hồ Đạ Tẻh

Nằm cách trung tâm huyện 10 km, hồ Đạ Tẻh hiện ra trong màu xanh bao trùm của rừng nhiệt đới nguyên sinh và dãy núi Con Ó hùng vĩ trập trùng. Năm 1990, hồ Đạ Tẻh được khởi công xây dựng. Buôn Con Ó của người Mạ nằm trong lòng hồ được di dời đến mảnh đất cao hơn ngay bên cạnh hồ. Con đập lớn nối 2 sườn núi đã ngăn dòng để những con nước không còn chảy miệt mài vô nghĩa mà tụ lại hợp lưu dâng lên thành hồ. Vào thời điểm đó, hồ Đạ Tẻh là công trình thủy lợi “3 nhất” của tỉnh Lâm Đồng: vốn đầu tư lớn nhất, công trình thủy lợi hoàn chỉnh nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Năm 1997, hồ Đạ Tẻh hoàn thành trở thành công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Mặt hồ có diện tích rộng hơn 100 ha trải dài đến gần 10 km, nơi rộng nhất 400 m, chứa 24 triệu mét khối nước, được bao phủ bởi núi rừng nguyên sinh. Hồ đã mang nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho hơn 2.300 ha đất nông nghiệp làm nên những cánh đồng xanh tươi, trù phú ở các xã Mỹ Đức, Quốc Oai, Triệu Hải, Quảng Trị và thị trấn Đạ Tẻh, từng ngày làm cho vùng quê mới trở thành miền quê đáng sống, đưa huyện Đạ Tẻh trở thành huyện nông thôn mới năm 2020 là một trong 3 huyện đầu tiên của Lâm Đồng “về đích” nông thôn mới. Trong tiếng đồng bào Mạ (chủ nhân của vùng đất này), Đạ Tẻh có nghĩa là dòng nước nóng (Đạ: nước, Tẻh: nóng). Có lẽ, một vùng lòng chảo bị bao bọc, che chắn bởi núi đồi nên khí hậu ở đây nắng nóng, khô cháy, những dòng nước chảy qua đây cũng trở nên nóng hơn những nơi khác; vì thế mà cả vùng đất nắng bụi mưa bùn có tên là Đạ Tẻh. Không còn cái nóng khắc nghiệt nữa, dòng nước mát lành từ rừng nguyên sinh làm cho nước hồ ăm ắp quanh năm, vừa tưới tiêu cho mùa màng, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho Nhân dân trong huyện, hồ Đạ Tẻh còn góp phần cải tạo, làm thay đổi hệ sinh thái và cảnh quan môi trường tự nhiên, điều hòa môi sinh, tỏa luồng hơi nước mát lành làm cho khí hậu dịu đi, giảm độ nóng cho cả một vùng lòng chảo. Năm 2004, hồ được công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1312 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Voi (Thác Liêng Rơwoa)

Thác Liêng Rơwoa hay còn gọi là Thác Voi nằm ở thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, cách thành phố Đà Lạt 25km về hướng tây nam. Thác Voi là một trong những thác nước đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ với chiều cao hơn 30m, rộng chừng 15m. Các già làng K'ho cư trú lâu đời ở miền đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù trưởng của vùng núi Jơi Biêng có cô con gái rất đẹp. Mỗi khi sơn nữ cất giọng hát thì lá rừng thôi xào xạc, đàn chim ngừng tiếng hót để lắng nghe. Người yêu của nàng là con trai của tù trưởng làng bên. Chàng được nhiều người yêu mến, quý trọng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khôi ngô mà còn vì sự gan góc, dũng cảm ít ai sánh kịp. Họ đã trao lời hẹn ước nên duyên chồng vợ song chàng trai phải lên đường giết giặc và rồi nhiều mùa trăng trôi qua mà chẳng thấy quay về. Cô gái đau khổ tìm đến ngọn núi hoang vắng mà trước kia họ từng hò hẹn, cất tiếng hát tha thiết, sầu thảm với hy vọng người trong mộng tìm về chốn xưa. Tiếng hát khiến loài chim B'ling xúc động. Chúng rủ nhau bay đi thật xa để dò la tin tức rồi về báo cho nàng biết là chàng trai đã hy sinh ngoài chiến trường. Thế nhưng, sơn nữ vẫn không chịu chấp nhận sự thật phũ phàng đó. Nàng cứ hát, hát mãi cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ và không bao giờ gượng dậy được nữa. Đàn voi phủ phục nghe nàng hát bấy lâu nay cũng hóa đá lặng câm. Bỗng có tiếng nổ lớn, trời đất rung chuyển khiến ngọn núi gãy ngang và một dòng thác đột ngột tuôn chảy, tung bọt trắng xóa. Tiếng thác nước rì rầm hòa cùng tiếng xào xạc của rừng cây, tiếng líu lo chim hót như tiếp nối lời ca, tiếng đàn của sơn nữ xinh đẹp, thủy chung. Người K'ho bèn đặt tên cho thác là Liêng Rơwoa Jơi Biêng - thác của những con voi phủ phục hóa đá trước tình yêu nồng nàn, son sắt. Sẽ thật đáng tiếc khi đến Đà Lạt - Lâm Đồng mà không tới Liêng Rơwoa (thác Voi) kỳ bí, thơ mộng. Thác nước gắn liền với sự tích về mối tình thủy chung, bi tráng này đã được công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Dòng nước trong veo tuôn chảy qua sườn núi đá hoa cương trông thật ngoạn mục, nhất là khi ánh nắng rực rỡ chiếu rọi xuống thác làm bừng lên cầu vồng bảy sắc. Muốn xuống chân thác, du khách phải "chinh phục" 145 bậc tam cấp vòng vèo: khi là những bậc đá thiên tạo "ăn" vào vách núi cheo leo, lúc là các tấm ván của chiếc cầu gỗ xinh xinh chênh vênh bên bờ vực thẳm. Ngút tầm mắt là rừng đại ngàn với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thân và cành chằng chịt dây leo. Giữa mênh mang, lớp lớp cây rừng mầu xanh ngắt hoặc điểm xuyết những chòm lá đỏ rực như lửa, những thảm hoa màu vàng tươi hoặc tím biếc đẹp đến lạ lùng. Dưới chân thác và trong cánh rừng già xuất hiện một số tảng đá lớn có hình thù hệt như những con voi. Thế nên, tiếng thác đổ ầm ào khiến người thưởng ngoạn tưởng như có một đàn voi chạy đua hoặc tung vòi phun nước đùa nghịch với nhau. Phía sau dòng thác trắng xóa đang tung bụi nước mù mịt là những hang động sâu hun hút đầy bí ẩn. Đó là hang Dơi ăn sâu xuống lòng đất đến 50m với những vách đá có các hình thù, mầu sắc rất lạ mắt. Rễ cây và dây leo đan xen chằng chịt, càng xuống sâu, hang càng tối nhờ nhờ và lạnh lẽo như động của phù thủy. Đó là hang Gió với lối vào rất hẹp nhưng bên trong khá rộng, vi vút tiếng sáo gió trời. Bên cạnh vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng, thác Voi từng là cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ. Mới được tôn tạo thành điểm tham quan du lịch trong những năm gần đây. Năm 2001 thác Voi đã được công nhận là di tích - thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1271 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu

Thung lũng Tình Yêu là một trong những thắng cảnh thơ mộng nhất tại Đà Lạt, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía bắc, thung lũng Tình Yêu có địa chỉ tại số 7 Mai Anh Đào, phường 8, thành phố Đà Lạt. Đó là nơi đập Đa Thiện quy tụ những dòng suối nhỏ chảy từ đồi núi cao, thành hồ Đa Thiện trong vắt uốn quanh thung lũng rợp bóng thông xanh. Vào những năm 1930, toàn quyền Đông Dương và các cặp tình nhân người Pháp thường chọn khung cảnh này cho những buổi hẹn hò, rồi đặt tên là Valleé d'Amour. Đến thời vua Bảo Đại, vùng này được gọi là Thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, ông Nguyễn Vỹ - Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ - đã đề xuất đổi tên thành Thung lũng Tình Yêu. Thung lũng Tình Yêu đẹp và cuốn hút bởi thung lũng sâu và đồi thông quanh năm xanh biếc. Năm 1972, một đập ngăn nước được xây dựng vắt ngang qua thung lũng tạo thành hồ Đa Thiện, làm tăng thêm sức quyến rũ cho cảnh quan chung, đồng thời xuất hiện thêm hai tên gọi khác bên cạnh Thung lũng Tình Yêu là đập 3 và hồ Đa Thiện 3. Du khách có thể men theo những lối mòn hoặc leo cả trăm bậc, đi qua những cổng hoa với màu sắc rực rỡ để lên đồi Vọng Cảnh. Từ đây, Thung lũng Tình Yêu hiện ra trong tầm mắt đẹp tựa một bức tranh sinh động. Năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1238 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Núi Lang Bian

Núi Lang Bian nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 12km về phía bắc. Đây là địa điểm thích hợp cho các nhà dân tộc học, cho các du khách yêu văn hoá truyền thống đến nghiên cứu văn hoá của các dân tộc Nam Tây Nguyên. Núi Lang Bian còn được gọi là Núi Mẹ, gồm 2 ngọn, có độ cao 2.167m. Chuyện xưa kể rằng có một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết - chàng K'lang và nàng Hơ Bian. Do lời nguyền thù hằn của hai bộ tộc mà hai người đã phải chia lìa. Nàng sau khi chết đã hóa thân thành dãy núi mà người dân tộc Hơ Ho-lạch gọi là Núi Mẹ và sữa từ bộ ngực của nàng đã tuôn tràn thành những dòng suối, dòng thác tươi mát cho đời. Từ đó hai ngọn núi được đặt tên là Lang Bian. Núi Lang Biang hay còn gọi là núi Bà với chiều cao 2.189m thuộc dãy Bidoup huyền thoại từ lâu đã trở thành điểm đến thường xuyên của du khách. Núi Langbiang còn nổi tiếng nhờ truyền thuyết gắn liền với lịch sử của người Cơ Ho bản địa về thiên tình sử nổi tiếng của chàng Lang và nàng Biang. Từ năm 2004, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận Lang Biang là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn Hóa , Thể thao và Du Lịch tỉnh Lâm Đồng

Lâm Đồng 1253 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Prenn

Thác Prenn là một thác nước ở thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thác Prenn nằm cạnh quốc lộ 20, ở cửa ngõ vào Thành Phố Đà Lạt là một trong những Khu Du Lịch sinh thái về rừng, suối. Thác ở chân đèo Prenn cách trung tâm Đà Lạt khoảng 10 km. Thác nằm trong khu rừng nguyên sinh còn sót lại. Dòng nước từ trên ghềnh đá với độ cao hơn 20m cao đổ xuống trắng xóa như một dải lụa bạch trông tựa mái tóc của nàng Bạch Mao Tiên cô. Có thể vì thế mà một số du khách gọi là thác Tiên Sa. Thác Prenn bắt nguồn từ suối Prenn, khởi nguồn từ khu vực hố Tôm, suối Bảo Đại (Thung lũng sau Dinh 1 – Đà Lạt). Suối Prenn còn được gọi là Đạ Prền và Thác Prenn còn có tên cổ là Liang Tarding. Đến thác Prenn, du khách có thể tham quan, vui chơi giải trí và lên thăm đền thờ Âu Lạc, đền thờ vua Hùng tại tỉnh Lâm Đồng. Truyền thuyết thác Prenn còn gắn liền với lịch sử phát triển của Vương triều Chăm ở thế kỷ XVII thuộc triều đại Pôrômê (1625 – 1651). Từ năm 1998, thác Prenn được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng

Lâm Đồng 1252 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Cát Tiên

Di tích khảo cổ Cát Tiên là một quần thể các phế tích kiến trúc bằng gạch có quy mô rất rộng lớn, trải dài khoảng 15km theo tả ngạn sông Đồng Nai từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và Gia Viễn (huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng). Kết quả khai quật khảo cổ (từ năm 1994 - 2006) nhiều phế tích kiến trúc đền tháp, mộ tháp, nhà dài, hệ thống máng nước, đường đá cổ,… đã được phát lộ. Các kiến trúc ở đây có quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy vào công năng, có bình đồ vuông hoặc hình chữ nhật, cửa chính quay về hướng Đông. Quá trình khai quật đã tìm thấy hơn 1000 hiện vật gồm nhiều chất liệu như vàng, bạc, đồng, đá quý, gốm,… phong phú về loại hình như: ngẫu tượng Linga - Yoni, tượng thần Ganesa, thần Uma, nhẫn, hạt chuỗi, các lá vàng dập nổi hình của các vị thần, các linh vật Balamon giáo. Qua loại hình kiến trúc, hiện vật tìm được cho thấy đây là một thánh địa tôn giáo ảnh hưởng Ấn Độ giáo và là dấu tích của một nền văn hóa đặc sắc trong quá khứ. Di tích khảo cổ Cát Tiên là một phát hiện lớn của khảo cổ học Việt Nam cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Tư liệu khai quật khảo cổ cho thấy, văn hóa Cát Tiên có quá trình phát triển khá dài: Giai đoạn sớm vào khoảng thế kỷ thứ IV - VI và giai đoạn muộn có niên đại thế kỷ VII - 10 sau công nguyên. Đặc biệt quá trình phát triển của văn hóa Cát Tiên có mối quan hệ gần gũi với văn hóa Champa ở Nam Trung Bộ và văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo của đồng bằng Nam bộ Việt Nam. Theo ý kiến của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong hội thảo khoa học Di tích khảo cổ Cát Tiên, (tháng 3 năm 2001) đã kết luận: “ Di tích này có nhiều yếu tố bản địa độc đáo (nội sinh) đồng thời cũng có nhiều yếu tố bên ngoài (ngoại sinh - exogenous). Các yếu tố ngoại sinh đã thấy từ phía Tây Nam là Chân Lạp và từ phía Đông Bắc là Champa, bao gồm cả về văn hóa hữu thể và vô thể. Có thể những yếu tố văn hóa hữu thể hơi nghiêng về Chân Lạp còn những yếu tố vô thể lại nghiêng về Champa. Do vậy, di tích này có tính “ĐỨNG GIỮA và NÓ là CHÍNH NÓ”. Di tích khảo cổ Cát Tiên nằm ở khoảng giữa tuyến đường tỉnh lộ 721 nối quốc lộ 20 (ngã ba Madagui - huyện Đahuoai - tỉnh Lâm Đồng) với quốc lộ 14 (ngã ba Sao Bọng - huyện Bù Đăng - tỉnh Bình Phước). Trung tâm di tích nằm ở bờ Bắc sông Đồng Nai sát với vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Tiên, cách Đà lạt khoảng 190km (về phía bắc) và Tp. Hồ Chí Minh khoảng 180km (về phía nam), đây là vị trí khá đắc địa trên bản đồ du lịch, rất thuận lợi cho các Tour du lịch từ Tp Hồ Chí Minh, Đà lạt và các tỉnh Tây Nguyên tới tham quan. Di tích khảo cổ Cát Tiên còn được mệnh danh là THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN, là nơi lưu giữ những bằng chứng của một nền văn hóa đặc sắc cách đây hơn 1000 năm lịch sử. Với hiện trường di tích rộng lớn và số lượng hiện vật phong phú, có giá trị đặc biệt như các lá vàng dập nổi hình các vị thần, vật linh Balamon giáo và sưu tập Linga - Yoni bằng vàng, đồng, đá, đá quý… trong đó có bộ ngẫu tượng Linga - Yoni khổng lồ được nhận định là lớn nhất Đông Nam Á (so sánh với các di tích cùng tích chất). Ngoài khu di tích khảo cổ Cát Tiên trên địa bàn huyện Cát Tiên du khách còn được tham quan Di tích Lịch sử kháng chiến Khu ủy khu VI và một số điểm sinh hoạt của Người Mạ, dân tộc bản địa lâu đời đã và đang sinh sống trên vùng đất huyền thoại này. Khu di tích khảo cổ Cát Tiên mang đậm dấu ấn văn hóa bản địa, nhưng vẫn thể hiện sự tiếp thu tinh hoa của những nền văn hóa khác trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại từ thế kỷ IV đến IX. Nơi đây gắn liền với một cộng đồng cư dân cổ có tổ chức, quy mô, với hệ thống kinh tế - xã hội thống nhất, chặt chẽ có trình độ phát triển cao (mà minh chứng thuyết phục nhất là sự xuất hiện chữ viết trên các mảnh vàng). Sự hình thành và phát triển của di tích đóng vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử của vùng Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích khảo cổ Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 31/12/2014) Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Lâm Đồng 1307 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Danh lam thắng cảnh Núi lửa Nâm B’Lang

Núi lửa Nâm B’Lang (còn có tên gọi khác là Núi lửa Chư R’luh), thuộc địa phận xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Đây là núi lửa được tạo thành trong giai đoạn cuối của lịch sử phát triển địa chất - Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO Đắk Nông. Đây là núi lửa duy nhất trong vùng Công Viên Địa Chất Đắk Nông tạo ra hệ thống hang động dung nham, có quy mô và độc đáo bậc nhất Đông Nam Á. Theo khảo sát, nghiên cứu của các nhà khoa học, quá trình hoạt động các dòng dung nham từ miệng Núi lửa Nâm B’Lang chảy về tất cả các hướng khác nhau (Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam và Đông Nam). Đến nay, phát hiện được 4 hệ thống hang động, gồm 50 hang động có đặc điểm phân bố và cơ chế tạo thành hang, cửa hang phong phú, đa dạng và đẹp. Có nhiều hang phân bố ở tầng nông, nhưng cũng có nhiều hang phân bố ở tầng sâu hàng chục mét. Núi lửa Nâm B’Lang, phân bố ở độ cao khoảng 601m so với mực nước biển với chiều sâu miệng núi lửa khoảng 59m. Trục dài núi khoảng 160m, trục ngắn khoảng 100m; diện tích miệng núi lửa khoảng 4ha, diện tích núi lửa khoảng 1,6km2. Khu vực Núi lửa Nâm B’Lang nằm gần các bon, buôn giàu truyền thống văn hóa của các dân tộc M’nông, Ê đê… với các lễ hội, nghề truyền thống và các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng tạo thuận lợi để kết nối tour, tuyến du lịch, khai thác và phát triển du lịch trong tương lai. Ngày 12/3/2024, Bộ Văn Hóa -Thể Thao -Du Lịch đã ban hành Quyết định số 611 xếp hạng Di tích quốc gia đối với Danh lam thắng cảnh Núi lửa Nâm B’Lang, xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.

Lâm Đồng 1454 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Drai Dlông

Thác Drai Dlông cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 35 km, thuộc địa bàn hai xã Quảng Hiệp và Ea M’Drŏh, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Drai trong tiếng Êđê nghĩa là thác; Dlông có nghĩa là cao, vì vậy, Drai Dlông có nghĩa là thác cao. Ngoài ra, thắng cảnh này còn có tên gọi khác là thác Ba tầng. Nằm ở phía Tây Nam của xã Quảng Hiệp, được tạo thành bởi hai ngọn đồi bao bọc có độ cao trung bình 500m so với mặt nước biển, dòng chảy của thác Drai Dlông bắt nguồn từ dòng chảy của hai con suối Ea’Drǒh (con suối lớn) và suối Ea M’Drǎh (con suối nhỏ), đến đoạn gần thác khoảng 01 km thì hòa quyện vào nhau, gặp những tảng đá to lớn, thẳng đứng với độ cao 30m chặn lại, chia dòng chảy thành ba nhánh, trải dài như ba dải lụa trắng từ trên cao đổ xuống. Từ dưới nhìn lên, ngọn thác cao vời vợi, lấp lánh ánh bạc, xung quanh là rừng cây xanh tốt với các loại cây vươn cao để thích nghi với dạng địa hình vách đá thẳng đứng, có nhiều loại cây gỗ quý hiếm như sao, hương, cà chít, bằng lăng tím, đặc biệt là loài xương rồng mọc trên đá. Cách thác Drai Dlông khoảng 01 km là buôn M’Drŏh (buôn Cháy), đây là buôn của người Êđê Adham. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, bà con buôn M’Drŏh cùng với buôn Rừng, buôn Ưng, buôn Ea Win đã vận chuyển lương thực cho kháng chiến từ trạm A10-B3 qua Ea H’Leo, Krông Bông và xuống Phú Yên, Khánh Hoà. Buôn M’Drǒh là buôn căn cứ của H5, đồng bào trong buôn đã kiên trì đấu tranh, tổ chức tuần tra canh gác, đưa dẫn, nuôi dấu cán bộ cách mạng, vót chông, làm bẫy, chế tạo vũ khí thô sơ để bảo vệ buôn làng. Thời kỳ chiến tranh ác liệt, địch tổ chức càn quét, bắt bớ, đánh đập dã man nhưng đồng bào buôn M’Drǒh từ già, trẻ, trai, gái thà bị đánh đập, đói cơm lạt muối chứ quyết không hợp tác với giặc, một lòng theo Đảng đến cùng. Khi bị địch phát hiện đây là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng, cả buôn M’Drǒh bị đốt cháy không còn một nhà nào nên buôn còn được gọi là Buôn Cháy. Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng thác Drai Dlông là Di tích Danh lam thắng cảnh Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk.

Đắk Lắk 1312 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Drai Yông

Danh lam thắng cảnh thác Drai Yông thuộc địa bàn xã Ea M’nang, huyện Cư Mgar và xã Cuôr Knia, huyện Buôn Đôn, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 22 km về hướng Tây Bắc. Thác Drai Yông được xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 823/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 09/3/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tổng diện tích khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích: 83,62 ha (Khu vực I: 5,83 ha; Khu vực II: 77,80 ha). Trong tiếng Êđê, thác Drai Yông, có nghĩa là “thác đòn dông” hay “thác nước đổ mạnh”. Đây là một dòng thác đẹp nằm ở trung nguồn suối Ea Tul – một dòng suối bắt nguồn từ suối Kǒ Čư Kpô, huyện Krông Búk. Suối Ea Tul có dòng chảy từ Đông sang Tây, cuối cùng đổ ra sông Sêrêpốk. Trên dòng chảy của mình, dòng suối này tạo nên ba dòng thác đẹp là thác Drai Kroa, Drai Yông và Drai Mpi. Trong hệ thống thác này, Drai Yông là thác thơ mộng và hùng vĩ nhất. Thượng nguồn Drai Yông là cả một dòng suối rộng gần 100m, 48 bờ phía Bắc là những bụi tre, khóm nửa mọc đan xen nhau và những cánh rừng tái sinh được chính quyền địa phương cho trồng để khôi phục cảnh quan, tạo môi trường cho di tích. Bờ phía Nam là những thảm cỏ xanh mượt và cánh đồng ngô tươi tốt. Khi chỉ còn cách nơi thác đổ khoảng 10m, nước từ thượng nguồn bỗng cuồn cuộn chảy về, bất chợt đứt gãy đổ xuống một thung lũng sâu tạo nên dòng thác Drai Yông. Nơi thác đổ có chiều rộng khoảng 80m và chiều cao khoảng 12m, nước cuồn cuộn đổ tạo ra những âm thanh vang vọng cả một vùng. Hơi nước, bụi nước từ dòng thác bay trắng xóa, mù mịt tựa như màn sương bay lơ lửng trong không khí, khi ánh mặt trời chiếu xuyên qua màn hơi nước này trở thành dải cầu vồng rực rỡ huyền ảo dưới ánh nắng ban mai. Danh lam thắng cảnh thác Drai Yông là một bộ phận cấu thành di tích của huyện Cư Mgar và huyện Buôn Đôn. Với cảnh quan thiên nhiên nên thơ, không khí trong lành và thoáng mát, thác Drai Yông là một địa điểm du lịch lý tưởng, có sức hút rất lớn đối với những người đam mê các hoạt động dã ngoại ngoài trời, muốn tìm về thiên nhiên để xua tan căng thẳng, mệt mỏi sau những ngày lao động nặng nhọc nơi đô thị ổn ào, náo nhiệt và bụi bặm. Bên cạnh đó, hệ sinh thái quanh Thác còn lưu giữ được nhiều nét hoang sơ, lại gần với trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, giao thông tương đối thuận tiện cho du khách trong và ngoài tỉnh cũng như khách quốc tế đến tham quan, trải nghiệm, khám phá tại danh thắng này. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1364 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích danh lam thắng cảnh Hồ Lăk

Hồ Lăk theo ngôn ngữ của dân tộc Mnông thì từ “Lăk” có nghĩa là “Nước”. Hồ Lăk còn gọi có tên gọi khác là hồ Lạc Thiện, nằm ngay thị trấn Liên Sơn, huyện Lăk, cách trung tâm Buôn Ma Thuột 56km về phía Nam trên quốc lộ 27 đường đi Đà Lạt. Hồ Lăk có diện tích hơn 500 hecta, đây là một trong những hồ tự nhiên có diện tích lớn nhất ở Việt Nam, phía Tây Nam của hồ thông với dòng sông Krông Ana (Sông vợ) là một trong những nhánh sông lớn của dòng Sêrêpôk, phía Tây hồ Lăk là dãy Čư Yang Sin hùng vĩ như ngực chàng trai cường tráng che chắn cho mặt hồ bốn mùa phẳng lặng dưới chân núi. Từ trên đỉnh đèo Lạc Thiện của buôn Yang Rôk thuộc xã Lăk Yang Tao nhìn xuống chúng ta sẽ thấy cảnh hồ hiện ra với một vẻ đẹp lộng lẫy – Trời mây, nước, đồi núi, đồng ruộng hoà lẫn vào nhau như một bức tranh thuỷ mạc. Hồ Lăk còn gắn liền với truyền thuyết về lửa và nước của đồng bào Mnông. Chuyện kể rằng: Ngày xửa, ngày xưa đã lâu lắm rồi, chẳng biết vì nguyên cớ gì thần nước và thần lửa bỗng mâu thuẫn với nhau. Sau một trận kịch chiến, thần nước thua trận phải chui vào một tảng đá. Từ đó hạn hán bắt đầu xảy ra, mấy năm liền không có mưa, cây cối và súc vật chết hết. Dân làng ngửa mặt lên trời, tiếng ai oán dậy đất. Một ngày kia, có một chàng trai nghèo ra đi, với quyết tâm tìm ra nguồn nước cho buôn làng. Chàng cứ đi mãi, đi mãi, một lần mệt quá chàng trai ngồi nghỉ trên một tảng đá có một chú lươn đang nằm cuộn tròn. Chàng bắt chú lươn đó đem về bỏ trong một cái nồi, sáng hôm sau chàng bỗng thấy có những giọt nước từ miệng lươn nhả ra, đọng dưới đáy nồi. Chàng linh cảm rằng: Thần Nước đây rồi!. Chàng bèn thả lươn ra và cứ lần theo dấu lươn trườn mà đi, đi mãi, tới khi lươn biến mất thì cũng vừa lúc một hồ nước mênh mông vụt hiện ra trước mắt. Chàng trai dụi mắt một lần, hai lần, rồi lại một lần nữa mới dám tin rằng không phải mình mơ. Hồ Lăk có từ đấy. Ngày nay, hồ Lăk là một điểm du lịch hấp dẫn, đến đây du khách sẽ được cưỡi voi, chèo thuyền độc mộc, tìm hiểu về phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng tộc người Mnông tại buôn Mliêng – một trong những buôn cổ đang được bảo tồn của tỉnh. Bên cạnh đó, hồ Lăk còn là một vựa cá lớn của tỉnh, là nguồn cung cấp thuỷ sản dồi dào phục vụ cho đời sống của nhân dân. Đặc biệt, trên đỉnh đồi cạnh hồ Lăk đã được vua Bảo Đại xây dựng một Biệt Điện để nghỉ ngơi, ngắm phong cảnh. Biệt Điện hiện được Công ty Du lịch Đắk Lắk trùng tu và khai thác phục vụ khách du lịch. Ngày 11/5/1993, hồ Lăk được nhà nước công nhận là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1428 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Dray Sáp Thượng (thác Gia Long)

Thác Dray Sáp Thượng nằm trên dòng sông Ea Krông, cạnh buôn Kuôp thuộc địa phận xã Ea Na, huyện Krông Ana, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 18km về phía Nam. Nhìn từ xa, thác Dray Sáp Thượng nổi bật một màu trắng xóa trên mặt nước bàng bạc của dòng sông Ea Krông. Hai bên dòng sông là một màu xanh mênh mông của núi rừng. Ngay khu vực thác, một hình ảnh thật hùng vĩ, gây ấn tượng mạnh mẽ đó là hình ảnh dòng sông Ea Krông, với làn nước trôi nhè nhẹ phía thượng nguồn, bỗng nhiên gấp khúc bởi một thềm đá chắn ngang cả dòng sông, rộng khoảng 70m. Nước sông ào ào dội xuống vực thẳm cao khoảng 08m, vang vọng cả một góc rừng. Mùa mưa, nước ngập tràn mặt sông, chúng ta chỉ thấy một ngọn thác khổng lồ, dữ dội. Tuy nhiên, đến mùa khô lưu lượng nước sông vơi hẳn, tạo thành 09 ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Trong số 09 ngọn thác, có 05 ngọn thác nằm phía giữa dòng sông cách nhau từ 05 đến 10m, có dòng nước ầm ầm đổ xuống, nhưng có dòng nước lại chảy róc rách nhẹ nhàng. Thác Dray Sáp Thượng từ xa xưa đã trở thành tình yêu và sự gắn bó của người dân bản địa nơi đây. Được thể hiện qua câu chuyện cổ dân gian của người Êđê đầy thi vị, về sự tích của dòng thác Dray Sáp Thượng này. Chuyện kể rằng: Thuở xa xưa, tại một buôn làng Êđê nọ có một người con gái rất đẹp tên là H’Mi, nàng yêu một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, hiền lành. Hàng ngày, đôi trai gái thường rủ nhau đi làm rẫy. Một hôm, sau khi làm rẫy xong, hai người rủ nhau đến nghỉ trên một tảng đá dưới tán cây cổ thụ xum xuê. Ngồi nghỉ chưa kịp ráo mồ hôi thì họ bổng thấy một con quái vật, đầu to như quả núi, mắt lớn tựa nồi đồng, râu dài mấy sải tay, tóc nhọn như tên, toàn thân phủ một lớp vảy trắng, lấp lánh như bạc. Con quái vật bay lên bầu trời rồi bất thần sa xuống đất như quạ vồ mồi, chân nó đạp mạnh làm cả một khoảng đất rộng lún xuống và tại đó một cột nước khổng lồ phun lên dữ dội, kéo theo cả nàng H’Mi đang khiếp đảm, còn người yêu của nàng thì bị cuốn tung đi nơi khác. Chàng trai như mảnh hổ cố sức giằng kéo người yêu lại nhưng đành tuyệt vọng, nhìn người yêu đang tan biến vào lớp sương mù, cùng những vẩy trắng lấp lánh. Từ đó, chàng trai biến thành một thân cây lớn, gốc cắm sâu vào ghềnh đá, thân mang dáng dấp một người đau khổ đang dang tay than khóc. Còn cột nước khổng lồ thì biến thành ngọn thác Dray Sáp Thượng ngày nay. Và, ở đầu kia nàng H’Mi vẫn thủy chung gào khóc đêm ngày đòi lại người yêu. Ngoài ra, thác Dray Sáp Thượng còn gắn liền với sự kiện lịch sử như sau: những năm 1930 – 1933, thực dân Pháp đã huy động dân phu và tù chính trị tại Nhà đày Buôn Ma Thuột lao dịch hết sức cực nhọc, gian khổ dưới đòn roi tra tấn, cực hình của chúng để xây dựng một đoạn đường vòng cung đi qua thác cùng với chiếc cầu treo qua sông Ea Krông. Ngày nay, chúng ta vẫn thấy hai bên còn hai mấu cầu mà thực dân Pháp đã cho xây dựng, đây là minh chứng lịch sử thuyết phục nhất về sự tàn ác của thực dân Pháp lúc bấy giờ, đã có không biết bao nhiêu dân phu và tù chính trị đã bỏ xác nơi rừng sâu, vực thẳm. Và đây, cũng chính là nơi thử thách, rèn luyện tin thần và ý chí đấu tranh cách mạng của những người Cộng sản yêu nước. Ngày 04/1/1999, Bộ VHTT đã ra quyết định số 01/1999/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao công nhận thác Dray Sap Thượng là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Diện tích quản lý của thác là 277,5 ha. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1388 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Thủy Tiên

Thuộc địa phận thôn Giang Tiến, xã Ea Puč, huyện Krông Năng, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về hướng Đông. Bắt nguồn từ những dòng suối trong rừng sâu đổ ra với 4 thác chính, mỗi thác có một vẻ đẹp riêng. Thuỷ Tiên tựa như một nàng tiên ẩn mình bên rừng núi với những dòng thác hiền hòa uốn lượn giữa đại ngàn. Đến với thắng cảnh thác Thủy Tiên chúng ta sẽ được thả hồn trong tiếng suối reo, ngắm bức tranh huyền ảo của thiên nhiên hai bên bờ thác, với những vách đá dựng đứng đến lưng chừng trời, và muôn vàn loài hoa, bướm, chim, thú. Không chỉ được biết đến như một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mà dòng thác cũng được gắn với câu chuyện cổ dân gian của người Êđê. Chuyện kể rằng: Ngày xưa tại một buôn làng Êđê có chàng trai tên là Đăm Ji, tướng mạo phi thường, chân tay chàng rắn chắc như đá. Đăm Ji giỏi nghề săn bắn, mỗi nhát kiếm của chàng vun ra là muôn thú phải khiếp sợ, nhưng tính chàng lại rất nóng nảy, hung hăng, nếu ai làm trái ý của chàng lập tức chàng thẳng tay trừng trị người đó, nên dù rất tài giỏi nhưng chàng Đăm Ji không được mọi người nể phục, ngược lại người em ruột của chàng lại hiền lành, tốt bụng nên được mọi người yêu thương và quý trọng. Một hôm hai anh em Đăm Ji vào rừng săn thú, chưa săn được con thú nào mà cái miệng lại khát nước, trong rừng không có giọt nước để uống. Trong lúc tuyệt vọng vì khát, đang cầm cây kiếm trên tay chàng Đăm Ji nổi nóng liền vung một nhát xuống đất, nhát kiếm vừa đâm xuống đất bỗng trời đất rung chuyển và một dòng suối hiện ra trước mặt, chàng hét to vui sướng vì đã có nước cứu được cơn khát. Chàng đưa tay vung một mạch bảy nhát kiếm nữa xuống đất, thế rồi ở cách dòng suối không xa tự nhiên đá lở, rất rung, muôn thú hoảng loạn, chàng liền tới nơi xem thấy hiện ra trước mặt một dòng suối nữa. từ đó trong khu rừng mà chàng trai hay đến săn có hai dòng suối, suối phía Tây được mọi người đặt tên Ea Đăh và suối phía Đông được mọi người đặt tên Ea Puč. Nhưng hai dòng suối này lại có hai tính cách khác nhau cũng giống như hai anh em nhà Đăm Ji vậy. Suối Ea Đăh ở phía Tây có tính cách giống như người anh, rất hùng dũng, dữ dội. Nhắc đến tên dòng suối này người dân trong vùng ai cũng khiếp sợ, nếu đến đây bắt cá, tìm nước uống phải hết sức đề phòng không sẽ bị dòng suối cuốn trôi, trẻ em trong vùng xuống tắm thường bị dòng suối cuốn mất. Những ai đến đây đánh bắt cá mà khen suối này nhiều tôm cá mới bắt được cá, nếu mà nói dòng suối này ít cá hoặc không có cá, suối sẽ không cho cá, có bắt cả ngày họ cũng không được một con cá nào. Khi dòng suối giận dữ sẽ dâng nước gây lũ lụt để cuốn trôi người. Ngược lại, dòng suối Ea Puč ở phía Đông rất hiền hòa không làm hại mọi người, hể ai đến đây câu cá, bắt cá thì ra về tôm cá đầy gùi, nên mọi người gọi dòng suối Ea Puč là suối hiền. Dòng suối giống như người em hiền lành và tốt bụng thường hay giúp đỡ người khác, không giống như dòng suối Ea Đăh hung dữ. Bên cạnh đấy thác Thủy Tiên còn được gắn với câu chuyện tình đẹp giữa anh bộ đội cụ Hồ và một thiếu nữ dân tộc Êđê xinh đẹp, cả hai đã anh dũng chiến đấu chống kẻ thù đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ buôn làng, bảo vệ chiến khu cách mạng góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Ngày 03/3/2009 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng thác Thuỷ Tiên là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh

Đắk Lắk 1278 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Drai Kpơr

Thác Drai Kpơr thuộc buôn Trưng (thường gọi là buôn M’Trơng) xã Čư Bông, huyện Ea Kar, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về hướng Đông Nam. Trong tiếng Êđê: Drai có nghĩa là thác, Kpơr có nghĩa là linh hồn, tâm linh, thác Drai Kpơr có nghĩa là “thác linh hồn”, “thác tâm linh”. Ngọn thác từ lâu đã gắn bó với cuộc sống của đồng bào Ê đê vùng Čư Yang trong sự tôn kính trân trọng, là nơi Yang (thần linh) ngự trị, cho dòng nước mát lành, cho cánh rừng xanh mướt và đem lại sự sống cho dân làng. Thác Dray Kpơr được bắt nguồn từ dãy Cư Yang (Núi Thần) cao 769m, dòng Dray Kpơr là sự hợp lưu giữa dòng chảy Ea Kpăm và suối Ea Kpơr phát nguyên từ dãy Čư Kdroah có độ cao khoảng 700 m, trải dài hơn 100 m, vươn rộng khoảng 50 m, từ đây mạch nước len lỏi qua khe đá rồi từ độ cao 550m đột ngột đổ ào xuống xuống một thung lũng nhỏ thuộc Buôn Trưng, mạch nước rơi xuống vỡ tan tạo ra thác nước cao đến 30 m sau đó hòa chung cùng dòng sông Krông Pác. Thác là sự nối tiếp của 4 ngọn thác, mỗi ngọn thác có một vẻ riêng. Bao quanh là những cánh rừng nguyên sinh với nhiều hệ động thực vật phong phú. Cách thác 500m là căn cứ cách mạng buôn Trưng từ 1960 đến năm 1975, nơi ghi dấu những kỳ tích cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chuyện kể rằng: Vào những năm 60 của thế kỷ trước, Mỹ - Diệm chủ trương thực hiện hơn nữa những chiến lược chiến tranh đối với miền Nam Việt Nam. Chính vì vậy khi đạo luật 10-59 được ban hành. Ấp chiến lược tiến hành trên toàn lãnh thổ, kể từ bên này vĩ tuyến 17. Tây Nguyên cũng không nằm ngoài chiến dịch ấy. Và buôn Trưng là một trong những nơi mà ý đồ "chiến thuật" mị dân dùng người Thượng làm lực lượng nòng cốt (lực lượng Furô) để triệt tiêu cộng sản nằm vùng được sử dụng triệt để. Căn cứ cách mạng Dray Kpơr ra đời giữa khói lửa chiến tranh. Cùng lúc đó một đơn vị bộ đội giải phóng cũng ra đời (lấy mật danh H1) và đóng quân ngay dưới chân thác Dray Kpơr. Khi phát hiện ra căn cứ này, Mỹ - Ngụy liên tiếp tiến hành những cuộc khủng bố trắng, buôn Trưng liên tiếp phải gánh những quả bom từ trên trời rơi xuống. Ngoài quang cảnh thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, gắn bó với di tích kháng chiến và gần gũi buôn làng, thác Drai Kpơr còn cung cấp nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho cánh đồng buôn Trưng. Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành Quyết định số 105/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao xếp hạng thác Drai Kpơr là Di tích Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk.

Đắk Lắk 1312 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975)

Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Nơi đây không chỉ là đường dây liên lạc thông tin, chuyển tiếp tế từ miền Bắc vào hậu phương tại miền Trung đến các tỉnh miền Nam mà còn là nơi Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng các đơn vị ban ngành trong tỉnh chọn làm căn cứ, sống làm việc và hoạt động cách mạng. Đặc biệt, Khu căn cứ còn là nơi diễn ra 3 lần Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: lần thứ III (năm 1966), lần thứ IV (6/1969), lần thứ 5 (11/1971); là hành lang để đưa đón cán bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trong những năm 1968 -1973. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4241/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích quốc gia đối với Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm, gồm 39 địa điểm. Theo lãnh đạo Sở Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch cho biết, Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm là một trong 43 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh, có giá trị và ý nghĩa to lớn về lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện lòng tri ân đến các thế hệ cha anh đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc của nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1420 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Yang Prong

Tháp Chăm Yang Prong thuộc xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về phía Tây, còn có tên khác là tháp Chàm Rừng Xanh. Đây là một trong những tháp Chàm duy nhất ở Tây Nguyên được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII để thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga (vị thần vĩ đại), cầu mong sự nảy nở của giống nòi và ấm no hạnh phúc. Tháp Yang Prong hay còn gọi là Tháp chàm Rừng xanh là một ngọn tháp Chàm nằm ở thôn 5 xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, tỉnh Đăk Lăk. Tương truyền, tháp là ngôi mộ của người đứng đầu làng Chăm xưa kia. Năm 1906, người ta thấy ở trên khung cửa đá của tháp những dòng bia ký cổ của vị Vua Chăm trị vì vào cuối thế kỷ XIII. Những dấu tích vật chất quanh Yang Prông lại như chứng tỏ đây vốn là một khu thành trì dinh thự xưa của người Chăm ở Tây Nguyên. Toà tháp còn khá nguyên vẹn, cao hơn 10m, xây bằng gạch cứng với nhiều kích cỡ khác nhau. Tháp có bình đồ vuông, phần tiền sảnh phía Đông rộng 1,60m. Cấu trúc tháp hình vuông, phía trên nhọn như củ hành, khác với các kiến trúc Chăm thường thấy. Năm 1990, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã tìm đến và có một số công trình nghiên cứu về tháp. Các nhà khoa học đều khẳng định: Yang Prông được xây dựng vào thế kỷ 13, chứng tỏ cách đây khoảng 700 năm, Tây Nguyên không chỉ có người bản địa mà đã có những dân tộc khác cùng sinh sống. Yang Prông là một di tích có ý nghĩa lớn đối với các nhà dân tộc học, lịch sử, kiến trúc…Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII dưới thời Vua Sinhavarman III (Chế Mân), thờ thần Shiva dưới dạng Mukhalinga, cầu mong sự nảy nở của giống nòi, và ấm no hạnh phúc. ThápYang Prong được phát hiện vào quãng những năm 1904-1911 bởi một nhà dân tộc học người Pháp tên Henri Maitre. Nhà khoa học này đã khảo tả về công trình này trong cuốn Les jungles Moi (Rừng Mọi) xuất bản tại Paris năm 1912. Tháp Yang Prong là một khối kiến trúc bằng gạch nung đỏ trên nền cao bằng đá xanh. Tháp có chiều cao 9m, đáy vuông mỗi cạnh dài 5m, mỗi mặt tường ngoài là 3 cửa giả, một cửa duy nhất mở về hướng Ðông, nơi ngự trị của các vị thần linh. Phía trên mở rộng và thon vút hình tháp bút, khác biệt với kiến trúc của các tháp Chàm khác ở Trung Bộ. Trong thời gian chiến tranh, tháp bị những kẻ đi tìm vàng đánh mìn nên đã hư hỏng nhiều. Tháp cũng không được xây dựng trên những ngọn đồi cao, núi thấp không bóng cây như những ngọn tháp chàm khác mà lại nằm chìm lấp dưới những tán cổ thụ của rừng già Ea Súp và bên dòng sông Ea H'leo hiền hòa. Yang Prông có nghĩa là tháp thờ Thần Lớn, vị thần chuyên cai quản mùa màng theo quan niệm của người Chăm cổ. Đây là một công trình còn dang dở, bởi lẽ khi xây dựng tháp, đồng bào Chăm không bao giờ xây một cái mà thường là một quần thể. Hiện nay, tháp đã được công nhận là Di sản văn hóa cần được bảo tồn. Tuy đã được tôn tạo nhưng nhìn chung tháp vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm của nó. Chung quanh tháp được bao quanh bởi những cây gỗ nhiều năm tuổi, khá rậm rạp, đây cũng là minh chứng cho nỗ lực bảo vệ của chính quyền địa phương. Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prông mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí, cổ kính thâm nghiêm tồn tại vững bền cùng thời gian. Ngày 3 – 8 – 1991, tháp đã được công nhận là Di tích văn hoá kiến trúc cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1413 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Rộc Tưng - Gò Đá

Nằm trên địa bàn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, phức hợp di tích sơ kỳ Đá cũ Rộc Tưng - Gò Đá gồm di tích Gò Đá ở phường An Bình và 12 di tích Rộc Tưng ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Trong đó, 4 địa điểm đã khai quật là Gò Đá, Rộc Tưng 1, Rộc Tưng 4 và Rộc Tưng 7. Số còn lại đều đã đào thám sát và xác nhận thuộc cùng phức hợp với Rộc Tưng - Gò Đá. Gò Đá Nằm ở phường An Bình, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, có tọa độ 13058’19,2” vĩ Bắc, 1080 39’05,1” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 421,5m. Di tích nằm ở bờ phải và cách sông Ba khoảng 1,5km, trong vùng địa hình đồi sót của sông Ba bị bóc mòn tích tụ, niên đại sơ kỳ Cánh Tân (QI). Di tích được khai quật 2 lần (năm 2015 và 2016), với tổng diện tích là 94m2, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam và Viện Khảo cổ học - Dân tộc học Novosibirsk thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga tiến hành. Di tích Gò Đá có 1 tầng văn hóa, cấu tạo từ đá granite phong hóa tại chỗ, chứa công cụ đá và mảnh thiên thạch. Một số đặc trưng chung: đa số được làm từ đá quartz, quartzite, kích thước lớn, loại hình nổi trội là công cụ ghè hai mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, công cụ chặt, mảnh tước, hòn ghè, chày…được ghè đẽo thô sơ, ít tu chỉnh, có hình thái khác và cổ hơn các di tích sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở Việt Nam như Núi Đọ (Thanh Hóa) và Xuân Lộc (Đồng Nai). Gò Đá là di tích cư trú, chế tác công cụ của cư dân sơ kỳ Đá cũ, ở giai đoạn người đứng thẳng (Homo erectus), trong dòng tiến hóa của nhân loại từ đây lên người hiện đại (Homo sapiens) và là bằng chứng về văn hóa đầu tiên của nhân loại. Rộc Tưng 1 Nằm ở xã Xuân An, có tọa độ 14002’25,3” vĩ Bắc, 1080 40’82,2” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 556m. Nằm ở bờ trái và cách sông Ba khoảng 2,5km, được khai quật 3 lần (năm 2016, 2017 và 2018); Năm 2016, khai quật hố 1 với diện tích 48m2 (6m x 8m); năm 2017, khai quật hố 2 với diện tích 70m2 (10m x 7m), được chọn dựng nhà trưng bày tại chỗ khi đào đến lớp 1.2. ở độ sâu 0,8m -1,1m (xuất lộ tầng văn hóa); năm 2018, khai quật 20m2 trong phạm vi 70m2 của hố 2, ở độ sâu lớp 2.2. còn lại 50m2 được bảo tồn trong nhà mái che. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Niên đại di tích Rộc Tưng 1, về cấu tạo địa chất cơ bản giống Gò Đá, thuộc sơ kỳ Pleistocene, về đặc điểm di vật cùng tồn tại của công cụ ghè hai mặt, ghè hết một mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, choppers… mang đặc trưng sơ kỳ Đá cũ. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Rộc Tưng 4 Nằm ở tọa độ 14002’2,7” vĩ Bắc và 108040’35,7” kinh Đông, cao 430m, nằm cách Rộc Tưng 1 khoảng 500m và cùng ở bờ trái sông Ba. Di tích được thám sát tháng 11/2015 và khai quật vào năm 2016, 2017 và 2018. Kết quả khai quật 4 hố ở di tích Rộc Tưng 4 cho thấy, các hố có cấu trúc địa tầng, đặc điểm hiện vật giống nhau, phản ánh tính chất cư trú và chế tác công cụ. Tổ hợp công cụ đá ở các địa điểm Rộc Tưng 4 về cơ bản giống Rộc Tưng 1 và Gò Đá. Rộc Tưng 7 Nằm ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tọa độ 14001’452” vĩ Bắc và 108041’11,3” kinh Đông, cao 438m. Di tích được phát hiện năm 2016 và khai quật 2 lần (năm 2017 và 2018) với tổng diện tích 40m2. Kết quả khai quật thu được một số công cụ đá, để chặt, mũi nhọn, nạo, công cụ ghè hai mặt, hạch và nhiều mảnh tước. Rộc Tưng 7 có đặc điểm, tính chất và niên đại tương tụ như các địa điểm đã khai quật ở thung lũng An Khê. Việc phát hiện, thám sát di tích Rộc Tưng 7 đã bổ sung vào danh sách các địa điểm sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở vùng đồi gò thung lũng An Khê, bổ sung thêm bằng chứng về sự hiện diện của cộng đồng người giai đoạn tối cổ của nhân loại trên đất nước Việt Nam. Các di tích khảo cổ Đá cũ ở An Khê đều phân bố trên các đồi gò cao trung bình 420 - 450m so với mực nước biển, thuộc vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Tổ hợp hiện vật trong các di tích sơ kỳ Đá cũ An Khê có sự thống nhất, ổn định về chất liệu, loại hình, kỹ thuật chế tác, mang đặc trưng chung của một kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ, mang tên kỹ nghệ An Khê. Kỹ nghệ An Khê được đặc trưng bởi tổ hợp công cụ đá làm từ cuội sông, suối tại địa phương, kích thước lớn, đá cứng, hạt mịn, chủ yếu là quartz và quartzite. Công cụ đá được ghè đẽo thô sơ với các loại hình tiêu biểu: công cụ ghè hai mặt (beface), rìu tay (Handaxe), mũi nhọn (pick), mũi nhọn tam diện và công cụ chặt thô (chopper). Trong đó, công cụ chặt thô chủ yếu phân bố ở khu vực châu Á, công cụ ghè hai mặt và rìu tay nổi trội cho Đá cũ phương Tây, còn mũi nhọn và mũi nhọn tam diện rõ nét nhất ở sơ kỳ Đá cũ vùng An Khê. Với những giá trị tiêu biểu trên, Rộc Tưng - Gò Đá, tỉnh Gia Lai được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích khảo cổ học quốc gia theo Quyết định số 3237/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 04/11/2020. Ngày 29/12/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Bằng xếp hạng công nhận “Di tích quốc gia đặc biệt” đối với Rộc Tưng-Gò Đá ở thị xã An Khê, Gia Lai. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Gia Lai 1305 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Di sản của Hoàng tộc Chăm

Kho mở Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm tọa lạc tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Nơi đây trưng bày hơn 100 hiện vật nguyên gốc mang đậm giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc Chăm và được phân thành 8 nhóm sưu tập. Trong đó, giá trị nhất là bộ vương miện của vua Po Klaong Mânai và búi tóc của Hoàng hậu Po Bia Som bằng chất liệu vàng với đường nét chạm khắc hoa văn rất tinh xảo, độc đáo ở đầu thế kỷ XVII. Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị về lịch sử ra đời của vương triều Chăm xưa, về trang phục, trang sức, vương miện, vũ khí, đồ ngự dụng trong hoàng cung,… được các đời hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau, trải qua hơn 400 năm. Trước năm 1975, Bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm được cất giữ kín trong kho vì những lý do tâm linh, tín ngưỡng và phần quan trọng khác là an ninh, an toàn cho di sản và người bảo vệ di sản. Cho đến những năm 1991 - 1992 thì việc khảo sát, nghiên cứu và lập Hồ sơ khoa học Đền thờ vua Po Klaong Mâhnai và Bộ sưu tập mới từng bước được tiến hành và hoàn thành trình Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 43/Văn Hóa /Quyết Định ngày 7/01/1993. Sau khi được xếp hạng, nhận thức được việc phải bảo vệ lâu dài Bộ sưu tập duy nhất của tổ tiên còn lại nên gia đình hậu duệ Hoàng tộc Chăm là bà Nguyễn Thị Thềm (1911 - 1995) đã đồng ý từng bước để Bảo tàng Bình Thuận thiết kế, trưng bày Bộ sưu tập dưới dạng “Kho mở”. Tuy nhiên, do ngôi nhà của bà Thềm được xây dựng những năm đầu của thập niên 1960, không gian khá chật hẹp, tầng dưới để ở, tầng trên chia thành 2 phòng để trưng bày nên gia đình chỉ mở cửa phục vụ cho các đoàn nghiên cứu, đoàn chính khách là chính, chưa phục vụ rộng rãi cho du khách tham quan chiêm ngưỡng các hiện vật gốc. Nhiều năm qua, chính quyền các cấp và các ngành chức năng cũng đã triển khai nhiều việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm. Tuy nhiên, hiệu quả phát huy vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với giá trị của di sản. Chính vì vậy, cần có hướng tiếp cận mới để Bộ sưu tập thực sự phát huy giá trị trong đời sống xã hội phát triển, đặc biệt là sự bùng phát về du lịch văn hóa. Qua thời gian khảo sát, thống kê, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận đã phân loại Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm thành 8 sưu tập như sau: Sưu tập vương miện vua và hoàng hậu; Sưu tập vũ khí: Đao, kiếm; Sưu tập nhạc khí (Phèng la); Sưu tập đồ thờ tự (tín ngưỡng, tâm linh); Sưu tập vải (vải thổ cẩm và vải có nguồn gốc từ nước ngoài); Sưu tập gốm sứ; Sưu tập giấy: Sắc phong một số đời vua triều Nguyễn và một số loại tư liệu về đất đai, địa bạ, các văn bản hành chính sao chép bằng chữ Hán Nôm từ những sắc phong các đời vua nhà Nguyễn; Sưu tập gỗ: Rương đựng đồ hoàng tộc, mũ vệ binh. Nguồn Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 1644 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm diễn ra cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh

Khu di tích lịch sử Đồng Khởi xã Hòa Thịnh là nơi trưng bày những hình ảnh lịch sử về ngày Đồng Khởi của quần chúng Nhân dân xã Hòa Thịnh. Đây cũng là nơi để giáo dục truyền thống cách mạng của xã đối với lớp trẻ ngày nay và mai sau, đồng thời để phục vụ khách tham quan du lịch tìm hiểu ý nghĩa lịch sử ngày Đồng Khởi xã Hòa Thịnh. Đây là khu di tích lịch sử cấp quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin có Quyết định số 2005/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 16/11/2005 xếp hạng di tích quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh” Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng mới, tháng 1-1959, Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 15 xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là “Giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập, dân chủ và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam”, “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng ở tỉnh Phú Yên chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ nhất được tổ chức tại căn cứ Thồ Lồ (huyện miền núi Đồng Xuân) đề ra chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào Đồng Khởi ở đồng bằng, tuyển thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng vùng căn cứ và cơ sở quần chúng… Ông Dương Dụ, một nhân chứng lịch sử, là một trong những cán bộ cách mạng trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc đồng khởi Hòa Thịnh đã xúc động phát biểu, hệ thống lại quá trình diễn ra đồng khởi. Sau khi được học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 và chuẩn bị lực lượng, vào 19 giờ ngày 22-12-1960, lực lượng tham gia đồng khởi bắt đầu hành quân từ dốc Đá Ngó qua các thôn, xóm rồi chia thành ba cánh tiến đến trụ sở xã Hòa Thịnh, nổ súng đánh vào trung đội dân vệ của địch. Do được vận động từ trước, khi nghe tiếng súng nổ, hàng nghìn quần chúng từ các hướng đổ ra đường, mang theo gậy gộc, giáo mác cùng lực lượng vũ trang của huyện vừa tấn công, vừa nổi dậy truy bắt bọn tề ngụy, rồi tập trung về trụ sở xã Hòa Thịnh để dự mít-tinh. Lực lượng tham gia đồng khởi đã bắt tên Phó Đại diện giao nộp con dấu, giấy tờ, tài liệu... Khoảng 1 giờ sáng 23-12-1960, cuộc mít tinh bắt đầu. Nhân dân hô vang các khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ và bọn bù nhìn tay sai”, “Cách mạng miền nam Việt Nam nhất định thắng lợi”. Đến 3 giờ cùng ngày, cuộc mít-tinh kết thúc. Hòa Thịnh trở thành xã đầu tiên của đồng bằng Khu 5 do chính quyền cách mạng làm chủ. Từ đồng khởi Hòa Thịnh, lực lượng cách mạng tiếp tục diệt ác, phá kiềm ở các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Mỹ, Hòa Hiệp. Vùng giải phóng của tỉnh Phú Yên mở rộng với hơn 20.000 dân, phong trào sản xuất nuôi quân, đóng góp ủng hộ cách mạng phát triển hơn bao giờ hết. Cũng từ đồng khởi Hòa Thịnh, hàng ngàn thanh niên của Phú Yên tình nguyện gia nhập bộ đội giải phóng, thoát ly vào căn cứ, đi khắp các chiến trường Khánh Hòa, Đắk Lắk làm nhiệm vụ chống Mỹ, ngụy, cứu nước. Nguồn Trang thông tin điện tử xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 1623 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954

Di tích "Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954" là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Sáng 27-9, tại xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã diễn ra Lễ đón nhận Bằng Di tích lịch sử cấp Quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” và tưởng niệm 65 năm cuộc đấu tranh Cây Cốc (29/9/1954 - 29/9/2019). Di tích “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Theo sử liệu ghi lại, 9h ngày 29-9-1954, nhân dân từ Quế Sơn, Tam Kỳ, Quảng Ngãi lên chợ Cây Cốc (xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước) để buôn bán. Khi nghe tin địch bắt giam, đàn áp người dân và các cán bộ cách mạng nên họ đã tập hợp, nổi trống mõ kêu gọi đồng bào quanh chợ Cây Cốc cùng đi đấu tranh. Đến khoảng 10h cùng ngày, khi vừa đến cầu Vôi, 3 chiếc máy bay khu trục của quân độ Pháp quần lượn trên bầu trời, địch đã ban hành mệnh lệnh đàn áp, liền sau đó lính của Tiểu đoàn 601 nổ súng vào nhân dân,... khiến hơn 330 đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống. Việc công nhận “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngoài việc trở thành địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ còn là nơi kết nối du lịch, văn hóa lịch sử của tỉnh Quảng Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 1521 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu thuế năm 1908 ở miền Trung

Phong trào chống sưu cao, thuế nặng ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã trải qua hơn một thế kỷ song những giá trị lịch sử mà phong trào mang lại vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay…. “Sòng dân Đại Lộc”… Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Các phong trào yêu nước liên tục nổ ra ở khắp nơi nhưng cuối cùng bị thất bại. Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chính sách “khai thác thuộc địa” lần thứ nhất bằng những chính sách thực dân phản động và bảo thủ, bóc lột nhân dân ta hết sức thậm tệ, tàn ác đặc biệt là chính sách sưu thuế. Người dân không những phải nộp thuế mà còn phải đi phu, lao dịch, đắp đường… Biết bao nhiêu người bỏ mạng, biết bao nhiêu người mang thương tật cả đời.. Những hình ảnh tang thương đó đã đi vào ca dao: Từ ngày Tây lại cửa Hàn Đào sông Cu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu Huyện Đại Lộc là một trong những địa phương của tỉnh Quảng Nam mà nhân dân chịu nhiều thống khổ bởi chính sách cai trị tàn bạo thực dân phong kiến. Đói khát, bệnh tật cộng thêm thiên tai, hạn hán liên miên đã dìm cuộc sống của những người nông dân xuống tận cùng của đau khổ. Tên tri huyện lúc đó lại lợi dụng chính sách tăng thuế để khai khống số dân nhằm thu lợi cho cá nhân. Trước tình cảnh đó, vào đầu tháng 3 năm 1908, tại một bữa đám giỗ tộc Trương làng Phiếm Ái, xã Đại Nghĩa; một số hào lý đã bàn nhau làm đơn lấy chữ ký của các lý trưởng các làng xã trong huyện gửi quan huyện xin giảm nhẹ sưu cùng các món thuế bởi nhân dân quá khổ trước chính sách sưu, thuế hiện hành; nếu không được sẽ gửi lên Tòa Công sứ Pháp tại Hội An. Do việc làm xuất phát từ sự thương dân, vì quyền lợi chính đáng của đa số nhân dân, nên những người "làm đơn lấy chữ ký ", được nhân dân trong huyện gọi là "Đồng dân" và cuộc "Xin sưu" do họ khởi xướng được gọi là "Sòng Đồng Dân" hay là "Sòng dân Đại Lộc". Ngày 11-3-1908, hơn 400 người dân ăn mặc rách rưới kéo xuống huyện đường, nhưng viên Tri huyện không dám nhận đơn, lại cấp báo với viên quan tỉnh và Công sứ Pháp nên đoàn biểu tình bèn kéo nhau đi vây dinh Tổng đốc rồi vây luôn cả tòa Công sứ. Nhân dân các phủ huyện như Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Hội An, Hòa Vang… cũng đồng loạt hưởng ứng tại địa phương mình, và còn kéo về Hội An nên số người biểu tình ở đây mỗi lúc một đông. Trước sức ép của quần chúng nhân dân, chính quyền thực dân phong kiến đã thẳng tay đàn áp, bắt một số người lãnh đạo phong trào đày đi các nhà tù hoặc xử trảm. Phong trào đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng sau một thời gian cũng bị chính quyền thực dân, phong kiến đàn áp. Tuy nhiên, phong trào nhận được sự hưởng ứng, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân bởi vì đây là phong trào đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của những người dân nghèo khổ chống lại sự bóc lột của bộ máy cai trị thối nát lúc bấy giờ. Phong trào chống sưu thuế năm 1908 cũng thể hiện được lòng yêu nước, tinh thần, sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Xuất phát từ lòng căm thù bọn thực dân xâm lược, bè lũ phong kiến tay sai bán nước hại dân, dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu yêu nước, những người nông dân “áo rách nón cời” đã vùng lên tranh đấu. Lúc đầu, phong trào chỉ xuất phát ở một huyện, sau đó nhanh chóng lan ra các huyện, phủ trong tỉnh Quảng Nam và các tỉnh miền Trung. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta từ xưa đến nay cũng chính là giá trị bất biến, góp phần quan trọng vào sự thành công trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Phong trào chống sưu thuế đã giáng một đòn rất mạnh vào bộ máy chính quyền thực dân phong kiến đương thời. Ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung, nhân dân nổi dậy phá buồng giam, đốt dụng cụ tra tấn, giải phóng tù nhân; hàng loạt những tên tay sai gian ác bị quần chúng nhân dân vây bắt, có những tên ác ôn còn bị trừng trị thích đáng. Dù ở đâu, các cuộc nổi dậy của nhân dân đều có sự “dẫn đường chỉ lối” của các nho sinh, thân sĩ- những người có nhận thức nhất định về xã hội lúc đó. Mặc dù phong trào đã thất bại song nó đã mang đến ánh sáng mới cho con đường cách mạng Việt Nam. Giai cấp nông dân chính là lực lượng nòng cốt cho các phong trào cách mạng sau này. Trước sức mạnh bởi đòn roi, súng đạn của kẻ thù, những yêu sách mang tính ôn hòa sẽ không mang lại kết quả; chỉ có bạo lực cách mạng mới đủ sức chống lại bạo lực phản cách mạng. Phong trào đã được nhận xét là “một cuộc cách mạng được chuẩn bị một cách cực kỳ khéo léo”. 110 năm đã trôi qua, phong trào chống sưu thuế ngày ấy mới chỉ là bước mở đầu cho những phong trào cách mạng sục sôi sau này. Nhưng giá trị hiện hữu mà cho đến hiện nay chúng ta vẫn phải khẳng định đó là sức mạnh của lòng dân. Ngày ấy, trước sự vận động của các nhà nho yêu nước, quần chúng nhân dân “cơm đùm gạo gói” thay nhau đi đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế. Hàng ngàn người chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm, chăm sóc, động viên những người bị thương… Họ đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, không vụ lợi, không toan tính cho cá nhân mình. Họ làm tất cả mọi việc chỉ với mục đích duy nhất là chống lại ách thống trị tàn bạo của chính quyền thực dân phong kiến; đòi lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho những kiếp người lao khổ. Phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc ta như một mốc son sáng ngời. Ghi nhận những giá trị lịch sử to lớn của phong trào chống sưu thuế; ngày 29/12/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 5400/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng Di tích lịch sử Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu, thuế năm 1908 ở miền Trung (Đình Phiếm Ái và Nhà Ông Nghè Tiếp), xã Đại Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam là di tích quốc gia.

Đà Nẵng 1456 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điểm di tích nổi bật